Tuesday, June 29, 2010

Giác Ngộ Tĩnh Thức !



Một phương pháp thực hành mới có thể giúp các phật tử đạt tới trạng thái giác ngộ tĩnh thức một cách tương đối.
Ed Halliwell , The Guardian, Saturday 26th June 2010

Tại học viện hoàng gia nghệ thuật vương quốc Anh, một phương pháp thực hành có thể giúp phật tử đạt được sự giác ngộ tĩnh thức tương đối trong xã hội, tập trung nghiên cứu chung quanh các tế bào thần kinh não và tâm lý học, tạm gọi là “cuộc cách mạng của sự tĩnh thức” vừa được nhà thần kinh học Matthew Taylor tuyên bố qua nhiều năm nghiên cứu.
Chứng cớ từ các cuộc thí nghiệm của Matthew, cho thấy rằng bộ não con người thường bị tác động dễ dàng bởi ngoại cảnh bên ngoài, vì thế nếu bằng một phương pháp nào đó con người có thể tập trung suy nghĩ của các tế bào não về một vấn đề, hoặc không để các yếu tố không cần thiết cuộc sống hàng ngày chi phối ảnh hưởng, con người sẽ có khả năng kiềm chế và khắc phục sự ảnh hưởng của các tác động ngoại vi của môi trường chung quanh, mà đạt được đến sự tập trung trí tuệ cao nhất.
Điếu này có lẽ không có gì xa lạ đối với Phật Pháp, vốn là một giáo lý thực tế thực hành hàng ngày trong đời sống, nhằm đưa con người tránh những ưu tư phiền muộn, cũng như các loại cảm xúc của 6 căn khi tiếp xúc với 6 trần.
Qua nhiều cuộc thực nghiệm của RSA, thì con người thường có những biểu lộ cảm xúc đau khổ, hành vi cử chỉ, nếu không kiểm soát được các tế bào thần kinh, cũng như sự tập trung suy nghĩ tư duy của bộ não.
Vì thế tương tự như thiền định trong Phật Giáo, nếu con người tập trung tư duy, gạt bỏ những ảnh hưởng của ngoại cảnh, và áp dụng thực hành dều đặn mỗi ngày, thì trong một thời gian, bộ não và hệ thần kinh sẽ dần dần quen thuộc và tránh xa các tác động không tốt, ảnh hưởng đến sư suy nghĩ tư duy và hành động của con người.
Ngôn ngữ của khoa học thường dựa trên sư nghiên cứu thực nghiệm thực tế xảy ra trên bộ não, tế bào thần kinh, cử chỉ hành động của con người, trong công cuộc nghiên cứu “Giác Ngộ Tĩnh Thức” theo phương pháp hiện đại ngày nay.
Hơn 2500 năm về trước, Phật giáo đã ứng dụng phương pháp thiền định, để gạt bỏ những cảm xúc quá tiêu cực buồn chán, hoặc quá tích cực hăng say, nhằm dẫn dắt người phật tử có một tâm hồn an lạc thảnh thơi cân bằng trong xã hội. Một khi con người đã nhận biết và tránh xa được những tác động, hành vi, cử chỉ, suy nghĩ xấu xa, tranh cải vô ích, và có được một sự tĩnh thức, trạng thái quân bình của bộ não, thì chúng ta gọi là “Giác Ngộ Tĩnh Thức.”
Theo nhà khoa học Stephen Batchelor, thì Đức Phật truyền dạy giáo pháp không phải chỉ là những giáo lý đơn thuần cho một tôn giáo, mà quan trong hơn: là nhằm giúp con người học hỏi và thực hành Phật Pháp, như là một lối sống hoàn chỉnh trong cuộc đời.
Như Jack Kornfield miêu tả, gần đây thế giới Tây phương bắt đầu quan tâm mạnh mẽ về đời sống tâm linh bên trong, phưong thức tự nhìn thấy mình, phản quan tự kỷ, là nguyên nhân chính yếu để dẫn dắt con người đến sự bình an hạnh phúc và an lạc.
Người Tây Phương bắt đầu nghiên cứu và thực hành thiền định phật giáo ngày càng nhiều và phổ thông kể từ thế kỷ 20 và 21 gần đây.
Nhiều trường đại học, bệnh viện, giảng đường bắt đầu học hỏi và thực hành phật pháp, trong các lãnh vực chữa bệnh, phát triển trí tuệ, và trong nhiều lãnh vực xã hội khác.
Nếu cái nhìn và giáo pháp của Đức Phật đã và đang tồn tại hơn 2500 năm qua, thì chăc chắn nó phải có cái lý và thực nghiệm thực tế mạnh mẽ, đã và đang được hàng trăm thế hệ chấp nhận, thực hành trong việc cải thiện đời sống tâm linh và vật chất, cũng như đương đầu với thực tế trong xã hội loài người xưa và nay.
Dương Tiêu Dịch.
Nguồn: http://www.guardian.co.uk/commentisfree/belief/2010/jun/26/buddhism-mindful

Đức Đạt Lai Lạt Ma Gặp Gỡ Phật Tử Đại Hàn Tại Tokyo.


Tibet Custom, June 27 2010

Tin từ Yokohama, Nhật Bản:
Hơn 500 tín đồ phật giáo Đại Hàn đã gặp gỡ nói chuyện thân mật với Đức Đạt Lai Lạt Ma tại hội trường của khách sạn Intercontinental Grand tại quận Yokohama, thủ đô Tokyo, Nhật Bản.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã hết lòng tán thán đến các phật tử Đại Hàn, trong công cuộc hoằng trì và duy trì phật giáo.
Đức Đạt Lai Lạt Ma mong muốn rằng Ngài không chỉ gặp gỡ phật tử Nam Hàn hiện nay, mà trong tương lai sẽ có dịp thăm viếng các phật tử Miến Điện và Tích Lan, mà Đức Đạt Lai Lạt Ma chưa có dịp viềng thăm. Chuyến công du cuối cùng của ngài ở các nước Đông Nam Á, là tại Thái Lan vào năm 1960, nhưng 50 năm qua, Ngài chưa có dịp trở lại đất nước chùa tháp Thái Lan.
Đức Đạt Lai Lạt Ma một lần nữa nhắn nhủ các phật tử Nam Hàn nên kết hợp và phát triễn hài hoà sự phát triễn của nền khoa học hiện đại và Phật Giáo cổ truyền, như những bậc danh sư phật giáo, xuất thân từ trường đại học nổi tiếng Nalanda ngày xưa.
Ngoài ra Ngài còn khuyên rằng, phật tử luôn luôn phải kiểm tra lý thuyết phật pháp trên sách vở, bằng sự thực hành trong cuộc sống hàng ngày.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nhắc lại sự nghiên cứu phát triễn “Tánh Không”,“Tĩnh Thức” và thực hành thiền định trong phật giáo, vốn đã được 2 danh sư phật giáo xuất thân từ Đại Học Nalanda , Hòa Thượng Chandakirti cùng với Nagarjuna, đang được coi là nền tảng phật pháp cơ bản của Tây Tạng.
Vào độ tuổi 75, Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng cho biết rằng ngài không ngừng học hỏi giáo pháp Đức Phật và thực hành thiền định đều đặn, đặt biệt là đọc những quyễn sách Phất Pháp được nghiên cứu bởi các bậc danh tăng tại Đại Học Nalanda.
Dương Tiêu Dịch.
Nguồn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=44,9310,0,0,1,0

Tuesday, June 22, 2010

Đức Đạt Lai Lạt Ma Đề Nghị Các Linh Mục Nhật Bản Nên Có Nhiều Các Nhà Khoa Học Phật Giáo.


By Tsering Tsomo, Phayul June 21, 2010

Tin từ Thành phố Nagano, Nhật Bản:
Tại một cuộc gặp mặt trao đổi thong tin truyền thong với hơn 200 Linh mục Nhật Bản, Đức Đạt Lai Lạt Ma đề nghị Nhật Bản nên kết hợp nền văn hoá khoa học tối tân hiện đại với Đạo Phật truyền thống Nhật Bản, để tạo ra nhiều nhà khoa học gia Phật Giáo.
Phật tử Nhật Bản nên đàm thoại, tìm hiểu với các nhà khoa học, để khám phá những lĩnh vực lý thú gặp nhau giữa thế giới tâm linh tôn giáo và khoa học, và áp dụng những giá trị xã hội thuần tuý như lòng từ bi và cứu khổ của Phật Giáo , vào các lãnh vực thực nghiệm khoa học.
Trong những năm gần đây, sự trao đổi giữa Thiền Định Phật Giáo Tây Tạng và nền khoa học Tây phương đã tạo ra một vị thế cân bằng và đáng chú ý trong lãnh vực thể chất và tinh thần của xã hội.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng một tâm hồn an lạc, không nóng giận sẽ làm giảm căng thẳng đời sống, cũng như áp xuất máu. Đức Đạt Lai Lạt Ma còn cho biết rằng theo một nghiên cứu mà Ngài tham gia trực tiếp thì, khi một người giận dữ, hung hăng, thì mọi việc trở nên rất tiêu cực, và 90% phần tiêu cực đó thật ra chỉ là ảo giác không thực tế do chính tâm thần bất an không ổn định của người đó tạo ra.
Đức Đạt Lai Lạt Ma còn cho biết thêm khi nền khoa học hiện đại đã tiến bộ vượt bực về phương diện vật chất, thì nền khoa học Phật Giáo cũng đã thành công không nhỏ trong các phương pháp trị liệu tâm linh, thần kinh, thông qua Thiền Định và dùng tứ vô lượng tâm Từ Bi Hỹ Xã.
Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma thì thiền định là một cách tốt nhất , khoẻ mạnh nhất dùng để phát triễn một tâm hồn cân bằng, an lạc, mà bạn không cần phải chích hay uống thuốc an thần để đạt được trạng thái thư giản tuyệt vời này, mà không bị phản ứng phụ của y dược.
Tại đại học danh tiếng Stanford, Hoa Kỳ, Wisconsin và Emory đã có những chương trình, khoá học nhằm đào tạo và nghiên cứu con người đạt tới trạng thái cân bằng và an lạc về tâm thần.
Tăng sĩ Tây Tạng hiện nay đang học kết hợp khoa học hiện đại phương tây và chương trình Phật Học cổ truyền. tất cả các nhà khoa học phương tây bất kể tôn giáo, từ Thiên chúa giáo, Cơ đốc giáo, Do thái giáo và ngay cả những người không có đạo, cũng hết sức tin tưởng vào hệ thống Phật Giáo Tây Tạng nói riêng và Phật Giáo nói chung. Tuy nhiên Nhật Bãn là một nước với Phật Giáo có nguồn gốc từ Đại Học Nalanda, thường nhấn mạnh vấn đề hợp lý và nghiên cứu điều tra , trong mục đích chúng minh những việc xảy ra thực tế cuộc sống, có một tiềm năng lớn lao hơn các quốc gia khác.
Theo Tỳ Kheo Yukai Shimizu, tăng sĩ tại chùa Zenkoji, thì cuộc trao đổi ý kiến giữa Đức Đat Lai Lạt Ma và các linh mục công giáo về Phật Pháp, được tổ chức tại khách sạn Kokusai, là một cơ hội ngàn năm một thuở, bởi vì ít khi có dịp các linh mục Nhật Bản có một dịp to lớn để bàn luận về vấn đề Phật Pháp với Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Cuộc trao đổi thong tin và bàn luận được tổ chức bởi 4 tổ chức Phật Giáo lớn tại Nhật Bản: Tổ chức toàn quốc phật giáo Nhật Bản,Hiệp hội nghiên cứu Phật Giáo Nalanda, Hiệp hội Phật Giáo thành phố Nagano, và Hiệp hội toàn quốc Nhật Bản Zenkoji,
Hệ thống thiền viện phật giáo Zenkoji có 200 chi nhánh chùa chiền khắp nơi tại Nhật Bản.
Dương Tiêu Dịch
Nguồn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=44,9292,0,0,1,0

Tuesday, June 15, 2010

Nữ Danh Ca Cher, Một Phật Tử, Tôi Luôn Luôn Quán Niệm Về Mình Trong Một Trường Học Của Riêng Tôi Sau Mỗi Cuộc Trình Diễn. By Robin Leach, June 9th, 20



Tin Từ Las Vegas, Hoa Kỳ:
Nữ siêu sao ca nhạc Pop lừng danh thế giới Cher bây giờ đã là một tín đồ phật giáo, tuy nhiên cô còn nói thêm, bên cạnh đó cô còn phải thực hành kiểm soát chính bản thân hành động tư tưởng trong một trường học của chính cô, mà theo lời cô diễn tả đ óchính là ngôi nhà của Cher.
Trong một cuộc phỏng vấn với tập san tuần báo Architectural Digest, tập san này đã chụp ngôi nhà khổng lồ tuyệt đẹp rộng 4,000 mẫu vuông, gồm 2 tầng, tọa lạc tận trên đỉnh đồi thuộc thành phố Los Angles, California. Tập san miêu tả ngôi nhà của nữ siêu sao ca nhạc này được trộn lẫn một sự kiến trúc kỳ lạ giữa tâm linh và nghệ thuật.
Theo lời Cher thì ngôi nhà cô được kiến trúc một cách hết sức linh động, tâm linh và thay đổi theo ngoại cảnh, làm cho cô không bao giờ cảm thấy buồn chán , và tác động mạnh mẽ đến tâm lý của người nữ ca sĩ này.
Nữ Ca Sĩ Cher đã thực hành phật pháp nhiều năm qua, là một môn đồ của Ni Sư người Hoa Kỳ Pema Chodron, còn cho biết rằng cô cố tình kiến trúc ngôi nhà để cô dễ dàng tiếp cận với tâm linh,với đạo Phật và ngay chính bản thân cô, cũng như dễ dàng thực hành Phật Pháp.
Nhà kiến trúc và thiết kế trang hoàng Martyn Lawrence đã giúp đỡ và xây cất ngôi nhà rất vừa ý với Cher , về cả 2 mặt tâm linh và nghệ thuật. Ngôi nhà được sơn phết chủ yếu bằng các màu kem, ngà voi, trắng, và màu cánh bướm vàng.
Ngòai ra Cher còn yêu thích hội hoạ, đặc biệt là hoạ sĩ danh tiếng Gothic, cô dành nhiều thời gian để vẽ , trang trí nội thất bằng chính khả năng hội họa sáng tạo của mình.
Dương Tiêu Dịch.
Nguồn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=9,9260,0,0,1,0

Thái Lan:Cá Độ Và Bài Bạc Trên Giải Túc Cầu Thế Giới Đã Làm Cho Giáo Hội Phật Giáo Ra Nhiều Luật Mới.


Pattaya Daily News, June 14, 2010

Tin Từ Pattaya, Thái Lan:
Cảnh Sát đã bắt giữ một người đàn ông thuộc miền nam vùng Pattaya, ngay tại hiện trường với nhiều tang chứng, biên lai cá độ các trận đá banh đang xảy ra trong giải vô địch bóng đá thế giới. Các biên lai tìm thấy trên người đàn ông này đã được cảnh sát chứng minh là những khoãn tiền của các cuộc cá độ, bài bạc giữa các trận bóng đá thế giới đang diễn ra tại Nam Phi.
Cảnh sát đã mở cuộc điều tra vào ngày 13th tháng 6 năm 2010, tại nhiều nơi thuộc miền nam vùng Pattaya, và đã bất ngờ tìm thấy trên người can phạm tình nghi, ông Wichan Phanikhorn, 46 tuổi, trên chiếc xe gắn máy, đang ghi chép biên lai cá độ với các khách hàng. Những tờ biên lai tìm thấy tại hiện trường bao gồm: giấy tờ các độ các trận đá bóng giữa đội Argentina và đôi Ý, Đội Anh và đội Hoa Kỳ, với tổng số tiền cá độ khoảng 130,000 bạt.
Ông Phanikhm thú nhận: đã thành lập 1 tổ chức cá độ bài bạc bất hợp pháp chung quanh khu vực ông sống. Cảnh sát đã giam giữ và cáo buộc tội cờ bạc bất hợp pháp của ông Wichan, và chờ ngày đưa can phạm ra toà xét xử.
Ngay lập tức, sau khi các hình thức cá độ bài bạc chung quanh giải túc cầu thế giới tăng lên gần đây, Văn phòng phật giáo Thái Lan đã gặp gỡ Giáo Hội Cao cấp Phật Giáo, nhằm đưa ra đạo luật mới để trừng phạt các tu sĩ Phật Giáo có bất cứ hành động nào dính líu đến các vụ cá độ, cờ bạc bất hợp pháp.
Theo giới luật phật giáo Thái, thì nêu chư tăng ni dính líu vào các vụ cờ bạc, cá dộ nhỏ thì chỉ bị cảnh cáo, tuy nhiên lần này đạo luật mới của Thái Lan sẽ trừng phạt nặng nề bằng cách đuổi hẳn ra khỏi Tăng hoặc Ni Đòan, nghĩa là vị đó sẽ không còn là tỳ kheo hoặc tỳ kheo ni nữa.
Hoà thượng Siripariyawigro chánh đại diện phật giáo quận hạt Sriracha tuyên bố rằng đạo luật mới này sẽ có hiệu luật tức thời, và bất cứ tăng sĩ nào liên quan đến các vụ cá độ bài bạc bất hợp pháp, sẽ bị đuổi khỏi Tăng đoàn ngay lập tức. mà không thong qua 1 lời cảnh cáo báo trước nào hết.
Dương Tiêu Dịch.
Nguồn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=52,9269,0,0,1,0

Monday, June 7, 2010

Đức Đạt Lai Lạt Ma Cầu Nguyện Cho Hoà Bình Tại Kashmir.


By Shabir Dar, Rising Kashmir, June 5, 2010

Tin từ Jammu, Ấn Độ:
Đức Đạt Lai Lạt Ma, Vị Lãnh Đạo Tâm LinhTây Tạng lần đầu tiên đến thăm vùng đất khói lữa Kishtwar trong vòng 2 ngày, đã cầu nguyện hoà bình và triển vọng tốt đẹp cho Jammu và Kashmir.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đến thành phố Gulabgarh, thuộc vùng Kishtwar vào lúc 10 giờ sáng địa phương, và Ngài đã được đón tiếp nồng nhiệt bởi Thống Đống Tiểu Bang Omar Abdullah, Vụ trưởng vụ du lịch Qamar Ali Akhoon, Chủ tịch hội R và B Saroori, ông Lal Singh, và chủ tịch hội MLA ông Ahmad Kitchloo cũng đồng có mặt.
Sau đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma đến thăm một ngôi đền cổ địa phương và được chào đón tán thán nồng nhiệt bằng các phong tục tập quán cổ truyền của 5,000 người, Ngài đã dành nữa giờ để cầu nguyện cho hoà bình trên vùng đất này.
Theo lời Đức Đạt Lai Lạt Ma, thì Ngài cầu nguyện hoà bình cho bất cứ nơi nào Ngài viếng thăm, tuy nhiên hôm nay Ngài hy vọng dân chúng 2 vùng Jammu và Kashmir nên sống hoà mình thân thiện, mọi người nên tin tưởng vào tâm linh cũng như coi trọng quyền tự do lẫn nhau.
Ấn độ là một đất nước dân chủ tự do, vì thế mọi người thuộc 2 vùng Kashmir và Jammu nên sống hoà đồng và tránh các cuộc bạo động.
Đức Đạt Lai Lạt Ma hết long tán thán Thống Đốc Ormar trong các công trình xây dựng nhà cửa và kiến trúc xã hội, Ngài cũng nhắc nhở tới cố thống đốc Mohammad và Farooq đã có công trong việc đẩy mạnh sự phát triển văn hoá và nhân bản của cộng đồng Kashmir và Jammu.
Thống đốc Ormar cũng tỏ lời cám ơn và tán thán Đức Đạt Lai Lạt Ma trong công việc vận động hoà bình bất bạo động cho mọi nơi trên thế giới, và đã hoàn thành ước nguyện của mọi người dân 2 vùng Kashmir và Jammu được diện kiến với Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Dương Tiêu Dịch.
Nguồn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=42,9249,0,0,1,0

Ăn Chay Kiêng Cữ Theo Phật Giáo Hạn Chế Sự Dư Thừa Các Chất Hoá Học Độc Hại.



By Jessica Root, Treehugger.com, June 5, 2010
Tin từ Brooklyn, New York, Hoa Kỳ:
Tin vui cho những người ăn chay trường, mới đây theo nghiên cứu của Bộ Sức Khoẻ và Môi Trường Hoa Kỳ đã làm một cuộc thực nghiệm trên 25 người tình nguyện sống một cuộc đời tu sĩ và theo chế độ ăn chay kiêng cữ trong vòng 5 ngày, đã giảm rất nhiều các chất hoá học độc hại trong cơ thể.
Trước khi bước vào cuộc thí nghiệm, 25 người trên đã ăn chủ yếu là thịt bò, thịt heo, sữa và họ đã được thử nước tiểu. Mặc dù không một ai trong số 25 người khoẻ mạnh trên uống bất cứ loại thuốc trụ sinh, hay bất cứ loại thuốc nào, nhưng qua thử nghiệm nước tiểu thì các nhà khoa học nhận thấy nồng độ kháng thể của mỗi người tăng cao hơn mức bình thường, cũng như sự xuất hiện của vi trùng lao phổi hiện diện trong máu của họ.
Không có gì ngạc nhiên, sau 5 ngày tu học, ăn uống kiêng cử theo chế độ nhà chùa, các nhà khoa học đã xác nhận nồng độ kháng thể và vi trùng lao phổi giảm xuống một cách đáng kể, sau khi thử nước tiểu lần nữa.
Tuy nhiên các nhà khoa học chưa có chứng cớ gì ngoài thức ăn đã làm 25 người trên khoẻ mạnh hơn, các yếu tố có thể ảnh hưởng tới sức khoẻ và tinh thần của họ có thể bao gồm: sự thiền định, môi trường yên tĩnh của nhà chùa, hoặc cách thức nầu ăn đạm bạc đon giản, cũng như giờ giấc thức ngủ đều đặn.
Tuy nhiên đây là một trong những nghiên cứu tiên phong trong việc ăn uống và sống một cuộc đời tu sĩ Phật Giáo, đã chứng minh được nồng độ các chất kháng thể và vi trùng lao phổi hạ thấp một cách đáng kể. Các nhà khoa học tuyên bố cần có nhiều cuộc thí nghiệm sâu sắc về các khía cạnh khác trong đời sống tu sĩ đã nâng cao sức khoẻ như thế nào. Điều quan trọng được khám phá ở đây là chắc chắn: với chế độ ăn uống kiêng cử điều độ, và đời sống điều hòa sẽ giúp cơ thể con người giảm các lượng hóa học độc hại dư thừa trong cơ thể, dù rằng cuộc nghiên cứu chỉ kéo dài 5 ngày ngắn ngủi.
Dương Tiêu Dịch.
Nguồn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=7,9250,0,0,1,0

Tuesday, June 1, 2010

Chuyện Gì Xảy Ra Sau Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma Qua Đời ?


By Tim Sullivan, Associated Press, May 30, 2010
Tin từ Dharmsala, Ấn Độ:


Câu hỏi được đặt ra một cách dè dặt và lo lắng từ già cho đến trẻ, khắp cả thủ phủ Dharamsala, của chính phủ lưu vong Tây Tạng tại thành phố phía Bắc Ấn Độ: “Chuyện gì sẽ xảy ra cho dân tộc Tây Tạng, sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma qua đời?”
Tuy nhiên chuyện gì sẽ đến rồi cũng phải đến, năm nay Đức Đạt Lai Lạt Ma sắp bước vào tuổi 75, người dân Tây Tạng dường như hiện nay không thể tránh khỏi câu hỏi thực tế đầy tế nhị và mẫn cảm : Sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma qua đời, dân tộc Tây Tạng sẽ đi về đâu ?
Câu hỏi này đã vang rộng khắp mọi nơi trên thế giới, đặc biệt là những nơi có người dân Tây Tạng sinh sống, và ngay cả quê hương của Đức Đạt Lai Lạt Ma, mà Ngài đã vượt biên đào thoát khỏi sự xâm lăng của Trung Cộng vào năm 1959. Sự qua đời của ngài, sẽ ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ đến các quyết định của Bắc Kinh đến đời sống người dân Tây Tạng, hiện đang sống dưới sự thống trị của Trung Cộng, và niềm lo lắng của 150,000 người lưu dân trong cuộc tranh đấu cho quyền tự trị của Tây Tạng, sẽ sụp đổ cùng với sự mất mát của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
“Khi tôi qua đời, chắc chắn sẽ có một sự sắp xếp lui bước nghiêm trọng trong cộng đồng và dân tộc Tây Tạng.” Đức Đạt Lai Lạt Ma phát biểu một cách trầm tư, trong cuộc phỏng vấn gần đây tại Dharamsala.
Lời phát biểu của ngài đầy bâng khuâng do dự về thế hệ trẻ Tây Tạng trong nhiệm vụ đảm trách và tranh đấu cho tương lai sắp tới cho dân tộc.
Cô Tenzin Norlha, năm nay 29 tuổi, một nghiên cứu gia sinh học Dharmasala, với nỗi mặt đầy lo lắng cho biết như sau “ hiện nay chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tuy nhiên hiện nay sức khoẻ ngài hiện nay không khả quan, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã và đang trãi qua hàng loạt cuộc giải phẩu gần đây, và đang bước vào tuổi 75, tháng 7 năm nay. Ai sẽ là người lãnh đạo công cuộc đấu tranh của Tây Tạng, sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma qua đời.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma giữ vị trí lãnh đạo tối cao hàng đầu tại Tây Tạng qua nhiều thế kỹ nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma đối với người dân Tây Tạng như là một vị vua, lãnh đạo phật giáo Tây Tạng, và biểu tượng của lòng từ. Ngài là biểu hiện của Hiện Tiền, Biểu Hiện của người điều khiển Hoa Sen Trắng, Trí Tuệ Thông Thái, Đại Dương Bao La. Sự hiện diện của ngài thường đem lại sự ấm áp và ngọt ngào cho các phật tử.
Gần 500 năm truyền thống, Đức Đạt Lai Lạt Ma được lựa chọn qua sự hoá thân vào các cậu bé Tây Tạng, Tuy nhiên hiện nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện nay tuổi tác đã cao, và là trụ cột duy nhất cho cả chính phủ lưu vong và dân tộc Tây Tạng. Một khi Ngài qua đời, thì dân tộc và cả cộng đồng lưu vong Tây Tạng sẽ nằm trong một áp lực nặng nề về tình hình chính trị, kinh tế cũng như tôn giáo, theo lời học giả Robbie Barnett, trường đại học Columbia.
Sức mạnh của chính quyền lưu vong và dân tộc Tây Tạng, hiện đang phụ thuộc vào một người duy nhất, đó là Đức Đạt Lai Lạt Ma, một người đầy tài năng và trí tuệ, vì vậy người kế thừa Ngài sau này, sẽ lãnh một trọng trách vô cùng khó khăn.
Đức Đạt Lai Lạt Ma là một tiếng nói mạnh mẽ và ảnh hưởng trên thế giới trong công cuộc dành độc lập và tự trị cho Tây Tạng.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đôi khi cho rằng hoá thân của Ngài sẽ tồn tại ở chính quyền lưu vong, tuy nhiên Ngài cũng không loại trừ khả năng rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 15 sẽ được chỉ định và bầu cử bởi dân tộc Tây Tạng.
Hiện nay Ngài thường xuyên gặp gỡ với các lãnh tụ tôn giáo hang đầu của Tây Tạng, để bàn tính tương lai cho sự truyền thừa của ngài.
Trung Công cũng đang mưu tính về tìm kiếm hoà thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma , sau khi ngài qua đời. Bắc Kinh cho rằng hoá thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma lần thứ 14 theo truyền thống, thì phải sinh sống tại Tây Tạng.
Trung Cộng đã tạo dựng và bắt cóc ít nhất 3 cậu bé mà họ cho rằng là hoá thân của Đức Ban Thiền Lạt Ma, nhân vật đứng thứ 2 sau Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Vào năm 2011, người dân Tây Tạng lưu vong sẽ bầu cử thủ tướng mới theo thể chế dân chủ, và thế hệ trẻ Tây Tạng cũng hy vọng rằng người lãnh đạo truyền thừa cho Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ mang lại sức sống mới và cái nhìn mới cho Đất nước Tây Tạng.
Dân tộc Tây Tạng cũng không loại trừ khả năng vị kế thừa Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ là 1 người được chỉ định và bầu cử bởi cộng đồng Tây Tạng.
Dù rằng tiến trình đòi hỏi tự trị cho Tây Tạng hiện nay không có gì tiến triển, tuy nhiên Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn kêu gọi mọi người hãy giữ vững hy vọng, một ngày không xa dân tộc Tây tạng sẽ độc lập và dân chủ, vì rằng Trung Cộng dù hiện nay độc đoán quyền lực như thế nào đi nữa cũng sẽ có ngày bị sụp đổ và tự chuyển biến trong nội bộ. Điều này sẽ tự dẫn đến một Tây Tạng được tự do tiến bộ độc lập từ bên trong những biến chuyển va thay đổi của chính quyền Bắc Kinh.
Dương Tiêu Dịch.
Nguồn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php

Tuesday, May 25, 2010

Hành Trình Của Một Nữ Tu Sĩ Can Đảm.


By Kumudini Hettiarachchi và Dhananjani Silva, Sunday Times, May 23, 2010
Sau đây là câu chuyện của một thiếu nữ 19 tuổi, cô Karma Lekshe Tsomo, người Mỹ, theo đuổi mơ ước trở thành một nữ tu sĩ.

Tin từ Colombo, Tích Lan:
Karma Lekshe Tsomo hiện đang là phụ tá giáo sư trường đại học San Diego, phân khoa nghiên cứu tôn giáo và phân tích tín ngưỡng, bằng một giọng nhẹ nhàng và từ tốn, kể lại “mối đam mê” làm việc của bà, trong việc thành lập tổ chức cộng đồng tiếng nói của các nữ phật tử thế giới, hầu đem lại lợi lạc và hiểu biết cho phái nữ nói riêng, và nhân loại nói chung.
Nữ tu sĩ Lekshe đã từng là nhà hoạt động dân chủ vận động tích cực cho một thế giới hoà bình bất bạo động, nhưng thật ra mục đích chính của cô là tập trung càng nhiều nữ tu sĩ phật giáo.
Bốn thành phần chính trong xã hội và hệ thống phật giáo là chư tăng, chư ni, ưu bà tắc và ưu bà di.
Trong các nước mà phật giáo nguyên thủy là quốc giáo, thì xã hội phật giáo hoàn toàn không đầy đủ như 1 cái bàn 3 chân, vì đa số không có, hoặc rất ít bóng dáng nữ tu sĩ.
Hồi tưởng lại cuộc hành hành trình gian nan và khó khăn, để cuối cùng trở thành 1 nữ tu sĩ phật giáo Nam Tông vào năm 1987, nữ tu sĩ Lekshe kiêm giáo sư đại học San Diego, kể lại hội nghị quốc tế của các nữ tu sĩ, được tổ chức lần đầu tiên bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma , có khoãng 1,500 tỳ kheo ni, tại Buddhagaya.
Các tỳ kheo ni đến dự không những từ các nước Á Châu vốn chiếm đại đa số, mà còn các tỳ kheo ni đến từ Hoa Kỳ, Đức Quốc và nhiều nước phương Tây khác.
Phái đòan tỳ kheo ni đông nhất là 16 người từ Tích Lan, dẫn đầu bởi bộ trưởng liên hệ Phật Giáo, Hội Nghi quốc tế của các tỳ kheo ni kéo dài 1 tuần, bao gồm thiền định, trao đổi phật pháp, và thảo luận sâu sắc về “Phụ nữ trong Phật Giáo”, bao gồm những chuyên đề về tình trạng sa sút của các tỳ kheo ni Nam Tông.
Hội nghi tỳ kheo ni phật giáo lần thứ nhất, năm 1987, là một phát triển mạnh mẽ của giới nữ trong đạo phật, các tỳ kheo ni cùng ôn lại và hiệu đính các giới luật cần thiết sau hơn 1,000 năm.
Tuy nhiên vấn đề cấp bách và quan trọng cho các tỳ kheo ni là trình độ giáo dục, bởi vì có rất nhiều nữ tu sĩ Phật Giáo suốt đời hy sinh cho đạo phật, mà không hề được xã hội và hệ thống phật giáo nguyên thủy quan tâm, ngay cả nhiều người không hề biết đọc kinh. Chính vì thế, nâng cao trình độ học vấn cho các nữ tu sĩ là điều cần thiết, cho tương lai lãnh đạo, trụ trì, giảng dạy phật pháp trong xã hội.
Các tỳ kheo ni tại đại hội phật giáo lần thứ nhất nhấn mạnh rằng, họ không hề có ý tưởng cạnh tranh với chư tăng, hoặc đòi hỏi có những ân huệ, hay quyền lợi đặc biệt, mà họ chỉ muốn có cơ hội để nâng cao trình độ học vấn và phật pháp, cũng như trong việc thọ giới.
Ngay cả bản thân cô Lekshe, việc thọ giới trở thành tỳ kheo là cả 1 hành trình gian nan, chướng ngại. Một cách trùng hợp, tên của cô Lekshe còn có nghĩa là thiền, và nhiều lần bạn bè cô đã chọc ghẹo cho rằng cô vốn có liên hệ mật thiết với thiền định Phật Giáo. Tuy nhiên, cô càng ngày càng tỏ ra yêu thích tôn giáo này, và càng tìm hiểu sâu vào đạo phật, Cô Lekshe lại càng ước nguyện trở thành một tu sĩ Phật Giáo.
Xuất thân từ một gia đình Tin lành chính thống, cha mẹ cô đã sững sốt khi nghe con gái mình muốn trở thành một nữ tu sĩ phật giáo. Lớn lên tại tiểu bang California Hoa Kỳ, cô đến Nhật Bản 2 năm, và sau đó sang Ấn Độ, cùng vài nước khác, nhưng không nước nào , chùa chiền nào chấp nhận thọ giới cho cô trở thành một nữ tu sĩ Phật Giáo Nguyên Thủy.
Vào năm 1977, lúc đã 32 tuổi cô đã được thọ giới và trở thành tỳ kheo tại Tây Tạng.
Nữ tu sĩ Lekshe tin tưởng rằng chư tăng phật giáo nguyên thủy cho rằng, nếu cho các tỳ kheo ni một trú xứ riêng biệt, thì chư tăng sẽ mất bớt phần cúng dường, tuy nhiên diều này hoàn toàn trái với giáo pháp Đức Phật, vì rằng cả hai tỳ kheo và tỳ kheo ni đều có cùng khả năng giác ngộ như nhau. Dù rằng có nhiều người cho rằng sinh ra mang thân là người phụ nữ, thì nghiệp nặng và xấu hơn, hoặc sẽ luân hồi nhiều hơn.
Hội nghị Tỳ Kheo Ni lần tới sẽ được tổ chức tại Singapore, lần đại hội thứ nhất 1987 đã thành lập được Hội Phật Học Sanghamitta và tổ chức Jamyang, nhằm thay đổi thành kiến tập quán của chư tăng và phật tử về khả năng của tỳ kheo ni , đồng thời phát triễn và xây dựng các công việc phật sự cho giới nữ tu sĩ.
Việc thọ giới cho một nữ nhân, cũng là một vấn đề nan giãi và tranh luận sôi nổi tại các nước thuộc Phật Giáo Cổ truyền. Tuy nhiên ở các nước thuộc hệ thống Phật Giáo Phát Triển thì hệ thống và xã hội tỳ kheo ni phát triễn khá mạnh và vững chắc. Theo tỳ kheo ni Lekshe thì dù Phát triễn hay Nguyên Thủy, thì trong phật pháp không hề có sự giới hạn trong việc thọ giới, vì đó chỉ là 2 danh từ chế định “Mahayana “ và “Theravada”, nhưng đều cùng 1 mục đích là đi theo con đường giải thoát của Đức Phật.
Kể từ Đại Hội Tỳ Kheo Ni lần thứ nhất 1987, Tích Lan đã tạo nhiều cơ hội để các nữ tu sĩ có nhiều cơ hội để học hỏi, giảng dạy, trụ trì, và có nhiều trường của chính phủ chuyên đào tạo và giúp đỡ tỳ kheo ni.
Tỳ kheo ni Lekshe ước lượng rằng có khoãng 60,000 nữ tu sĩ phật giáo trên toàn thế giới đang tham gia và hoạt động tích cực trong trường học, nhà trẻ, trại mồ côi, viện dưỡng lão, cũng như các khu nhà giúp đỡ các phụ nữ không nhà, đây là một dấu hiệu đáng kể trong xã hội Phật Giáo nguyên thủy.
Tỳ kheo ni, đặc biệt tại Châu Á, nơi mà 99% phật tử là nữ giới sinh sống, có thể làm nhiều việc mà các vị tỳ kheo không thể làm được, chẳng hạn cố vấn khuyên bảo về các vấn đề phụ nữ.
Nếu một nữ phật tữ có vấn đề khó nói trong xã hội, hoặc gia đình, cô ta không thể hỏi ý 1 vị tăng, bằng tất cả tấm lòng, nhưng dĩ nhiên cô ta co thể làm điều đó với một tỳ kheo ni.
Dương Tiêu Dịch.
Nguồn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=9,9185,0,0,1,0

Tuesday, May 18, 2010

Người Việt Yêu Nước: Chủ Trương, Tâm Huyết, Ước Mơ, Lý Tưởng Và Hành Động.

Không có con đường đấu tranh nào dễ dàng, trãi đầy gấm hoa, tơ lụa, vì vậy để thành công,tất cả chúng ta phải hy sinh quyền lợi, đương đầu với chông gai , chướng ngại vật, gian khổ hiểm nguy, bền bĩ để đạt được mục đích thắng lợi cuối cùng là đập tan xiềng xích gông cùm cộng sản, đưa đất nước phát triễn, dân tộc giàu mạnh . Đấu tranh từ bên ngoài đất nước, xa quê cha đất tổ nghìn dặm lại càng gay go thập bội. Nhưng tất cả chúng ta, từ già trẻ bé lớn, đều tin chắc ngày mai trời lại sáng, dân chủ, tự do, độc lập và sự phồn thịnh sẽ phát triễn nở rộ trên một quê hương Việt Nam vốn đang rách nát, khốn khổ , đọa đày dưới gông cùm của Đảng Cộng Sản Việt Nam,và nguy cơ Hán hoá, trở thành một Tây Tạng thứ hai bởi chính quyền Trung Cộng
Trước nguy cơ mất nước, và sự hũy diệt nền văn hoá truyền thống giáo dục truyền thừa của dân tộc Việt Nam, chúng tôi tha thiết kêu gọi tất cả con dân Lạc Hồng, từ khắp nơi trên thế giới, từ trong nước ra hải ngoại, hãy cùng nhau đứng lên tay trong tay, mỗi người góp một bàn tay, một tiếng nói, hành động, dù đơn giản nhỏ bé nhất từ trong gia đình (Chẵng hạn dạy cho con cháu học Tiếng Việt, lịch sử Việt, kính trên nhừơng dưới, lễ phép) ra đến xã hội để sớm chấm dứt một chế độ cộng sản phi nhân, phi pháp vô thần, buôn dân bán nước, hiện đang ngoi ngóp sinh tồn, bằng cách cam chịu nhục nhã đóng vai trò thái thú phục vụ cho mộng bá quyền của Đại Hán ở Đông Nam Á.
Trang web lý tưởng ra đời nhằm phục vụ cho mọi thế hệ Việt Nam, mỗi người một việc, đoàn kết, xây dựng, hành động, hầu đập tan mọi ý đồ chia rẻ phân hoá cộng đồng hải ngoại và truyền bá quãng đại thông tin, ủng hộ, thức tĩnh người dân trong và ngoài nước, ý thức được sự sống còn của dân tộc , vận mệnh đất nước Việt Nam hiện nay như “Chỉ Mành Treo Chuông.”, để rồi chúng ta, những người con dân Việt Nam, già trẻ nam nữ, bất phân chính kiến, phải nhận lấy trách nhiệm với tiền nhân, với hậu thế, để cứu vãn tình trạng quê hương mến yêu hình chữ S, hiện đang bị gặm nhấm, xói mòn, kiệt quệ dưới chế độ độc tài đảng trị hèn hạ, vô nhân đạo, phản dân hại nước của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Những công tác khẫn yếu sau đây nên được đặc biệt chú ý:
1. Điền chỉnh ,nghiên cứu và quãng bá rộng rãi lại kế hoạch ngoại vận và quốc tế vận. Xử dụng tối đa kỹ thuật thông tin hiện đại (paltalk, Websites,Bloggers,Tweeters, Facebook, Youtube…) để quảng bá rộng rãi các tư tưởng dân chủ cho người dân trong nước.
2. Gây ảnh hưởng và tổ chức vận động chính trị hành lang tại những chính quyền địa phương, các cơ quan quốc tế và giới truyền thông. Thúc đẩy giới trẻ Việt Nam có khả năng ứng cử vào những cơ chế địa phương và liên bang nơi nước mình đang cư ngụ.
3. Trẻ trung hoá các cấp lãnh đạo cộng đồng đồng thời học tập kinh nghiệm của những bậc tiền bối đi trước. Truyền bá tư tưởng dân chủ canh tân, cho giới trẻ trong nước
4. Đoàn kết, hy sinh quyền lợi cá nhân và loại bỏ những thị hiềm để ủng hộ tất cả các hội đoàn, chính đảng, tôn giáo có lập trường chính trị chống chủ thuyết cộng sản, không hoà hợp hòa giải với Cộng Sản Việt Nam, một chính quyền bạo tàn, khát máu , vô nhân đạo, đã hàng ngàn lần dối trá , lường gạt người dân Việt Nam từ năm 1954 -1956 (Cải cách ruộng đất) – 1968 hoà bình gian trá để thừa cơ đánh chiếm tàn sát người dân vô tội – năm 1973 hiệp định Balê – và cuối cùng là thời điềm sau năm 1975: đổi tiền, tập trung cải tạo, kinh tế mới, cướp đất, hối lộ tham nhũng, bán đất, chối bỏ lịch sử truyền thừa hào hùng của dân tộc Việt Nam.
5. Trả lại sự thật cho lịch sử bằng cách , chúng ta xóa bỏ tất cả các huyền thoại và chiêu bài từng nuôi sống Cộng Sản Việt Nam cho tới nay trong quần chúng như: “Huyền Thoại Hồ Chí Minh”, “Khúc Ruột Ngàn Dặm”, “35 năm rồi hãy quên đi”, “Người Việt Hải Ngoại là một cách tay thân thương của Đảng”, “Nghị quyết 36.” , cũng như nhiều âm mưu thâm độc dụ dỗ hoà hợp hoà giải, chót lưỡi đầu môi của bọn cộng sản và tay sai hiện nay đang len lõi lũng đoạn cộng đồng người Việt Hải Ngoại.
6. Chuẩn bị cho thế hệ tương lai mai sau nhằm xây dựng lại 1 xã hội đã và đang bị băng hoại trầm trọng về giáo dục , văn hoá, nhân cách , tư tưởng bởi sự đầu độc của chính quyền Hà Nội: Với đội ngũ hơn 3 triệu người Việt hải ngoại thành công rực rỡ trong mọi phương diện Kinh Tế, Khoa Học, Giáo Dục, Y Tế, Doanh Thương, Luật Pháp, chúng ta cần phải xây dựng hệ thống giáo dục đào tạo thế hệ mầm non Việt Nam phải biết đòan kết, không ganh tỵ, luôn ý thức được quyền lợi đất nước cao hơn quyền lợi cá nhân, phải biết tự hào mình là người Việt Nam, làm nhiều làm đúng, và cần trang bị xây dựng phát triễn sửa đổi những cơ sở hạ tầng căn bản như hệ thống giáo dục, trường học, bệnh viện, cơ cấu chính quyền dân chủ ý thức, để làm nền tảng cho các thế hệ Việt Nam tương lai.
7. Mỗi người trong chúng ta cần phải hiểu rằng, bất cứ ai phải có trách nhiệm và làm gương trong lời nói, cử chỉ hành động, ngay trong một gia đình, một tổ chức, một xã hội, và dân tộc
8. Mọi người nên nhận biết “nhận lỗi mình thì khó, nhìn lỗi người thì dễ”, công nhận những sai trái trong quá khứ và tự sửa sai cho chính bản thân.
9. Cởi mở và vui lòng tiếp nhận những ý kiến xây dựng của mọi người. Mọi ý kiến nên đúng trên lập trường xây dựng khách quan.
10) Mỗi Người chúng ta ai cũng phải có trách nhiệm xác định rõ ràng lằn ranh quốc-cộng, cần phải dập tắt và đưa ra tội lỗi cũng những kẻ Việt Gian ham lợi cầu danh, bán nước buôn dân. Bọn người Việt Gian phải biết rằng những hành động xấu xa của chúng, sẽ bị lưu truyền ngàn vạn đời sau. Mọi người chúng ta nên ý thức “im lặng có nghĩa là đồng loã và đồng loại với bọn Việt Gian”.
Có lẽ còn nhiều điều cần phải nói và nêu ra đây nữa, hy vọng rằng tất cả người dân Việt Nam hãy nhanh chóng cùng nhau nhập cuộc thực hiện hành động cho lý tưởng hoài bão “Một Quê Hương Việt Nam Ngạo Nghễ Hùng Cường, Một Dân Tộc Việt Nam Đòan Kết, Thông Minh, Ý Chí - Tổ Quốc Trên Hết” , để cho chúng ta một ngày không xa, cùng con cháu các thế hệ tương lai sẽ hãnh diện sóng bước hoà nhịp cùng các cường quốc khắp nơi và nhịp độ phát triển toàn cầu.
Dương Tiêu
05/18/2010

Thái Lan: Tu Sĩ Phật Giáo Cầu Nguyện Hòa Bình.


Tin từ Bangkok, Thái Lan:

Hàng trăm tu sĩ phật giáo Thái Lan cầu nguyện cho hòa bình, nhằm ngăn chận sự xung đột giữa chính phủ Thái Lan, và phe biểu tình phản kháng áo đỏ.
Các tổ chức Phật Giáo đã chính thức mời hàng trăm tăng sĩ tới quãng trường Chiền Thắng tại thủ đô Bangkok, cầu nguyện gửi thông điệp đến thủ tướng đương nhiệm Abhisit Vejjajiva, hãy ngưng ngay việc xử dụng quân đội để giết chết “những người vô tội.”
400 nhà sư trong các bộ y phục màu cam và nâu đã cùng nhau cầu nguyện, tại trung tâm thủ đô Bangkok thuộc quận Ratchaprarop vào chiều chủ nhật tuần qua.
Quận hạt Ratchaprarop thuộc trung tâm Bangkok, hiện đang là nơi chạm trán dữ dội trong vòng 3 ngày, giữa quân đội chính phủ và phe áo đỏ, làm cho 35 người bị thiệt mạng và 244 người bị thương.
Theo lời ông Adisak Wanasin, chủ tịch hội ngoại giao phật giáo Bangkok, thì ông đã mời tăng sĩ phật giáo từ các chùa chiền, tự viện trong thành phố, đến các trung tâm biểu tình, hầu cầu nguyện và ngăn chận làn sóng bạo động tăng lên giữu phe áo đỏ và chính phủ Thái.
Ông hy vọng thủ tướng tại chức Thái Lan sẽ hạ lệnh cho quân đội rút lui, và ngừng đàn áp bắn giết.
Ngoài ra ông Adisak còn tin tưởng rằng, chỉ cần quân đội rút lui, thì tình hình sẽ bớt căng thẳng và lắng dịu hơn nhiều.
Ông Adisak, năm nay 70 tuổi, sức khoẻ dồi dào nhờ thiền định phật giáo tuyên bố rằng , các tổ chức Phật giáo hoàn toàn đứng trung lập giữa 2 phía. Tăng sĩ chỉ mong muốn 2 bên nên ngừng các cuộc bạo động và có một chương trình đàm phán hoà bình.
“Phật tử hãy ngừng đã kích , chém giết lẫn nhau”, đó là nội dung lời kêu gọi của 400 tăng sĩ, giữa khói lữa, cảnh sát, quân đội, dân chúng thuộc phe áo đỏ hiện đang xung đột quyết liệt tại thủ đô Bangkok.
Tăng sĩ phật giáo không được quyền tham gia ứng cử, hoặc bỏ phiếu, cũng như biểu tình, theo luật lệ của hội tăng già nguyên thủyThái Lan, lời của một nhân viên cao cấp tại trụ sở phật giáo toàn quốc.
Tuy nhiên kể từ khi cuộc phản kháng của phe áo đỏ, vào trung tuần tháng 3 năm nay, đòi hỏi chính quyền phải tổ chức lại một cuộc bầu cử mới, thì tăng sĩ Phật Giáo đã và đang bắt đầu tham gia vào sự kiện này.
Phe áo đỏ muốn chính phủ hiện thời phải từ chức, vì họ cho rằng đó là kết quả của 1 cuộc bầu cữ gian lận và không dân chủ, khi năm 2008 toà án tối cao pháp viện Thái Lan tước đọat quyền ứng cử của cựu thủ tướng Thaksin Shinawatra.
Ông Adisak mong muốn Thái Lan sẽ trở lại không khí hoà bình thân thiện, mọi người sống trong vòng hoà ái, vui vẻ cởi mở, như một câu tục ngữ cổ truyền Thái Lan :” Thái Lan là xứ sở của nụ cười.”, tuy nhiên tình trạng hiện nay thi người dân Thái không thể nào có được nụ cười.
Khi hoàng hôn xuống, cuộc cầu nguyện của 400 tăng sĩ vẫn tiếp tục một cách kiên trì thầm lặng , trong một tình huống, bạo động hỗn loạn và nguy hiểm.
Dương Tiêu Dịch.
Nguồn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=52,9173,0,0,1,0
18 tháng 5 năm 2010

Wednesday, May 12, 2010

Giác Ngộ Giải Thoát Của Tu Sĩ Có Thể Bắt Đầu Bằng Một Cuộc Đi Bộ Đường Trường.


By Anthony Kuhn, Vermont Public Radio, May 11, 2010

Tin từ Vermont, Hoa Kỳ:
Bất kỳ ai đã từng tham dự các cuộc đi bộ hoặc chạy Marathon, đều cần có một thể lực cường tráng bền bĩ, và ý chí kiên định nguyên tắc để tham gia các cuộc thi này.
Vì vậy cũng không mấy gì ngạc nhiên lắm, khi một nhà sư Nhật Bản đã thực hiện một cuộc đi bộ đường trường vô tiền khoáng hậu, chiều dài bằng chu vi của trái đất – nhằm chứng minh thể lực bền bĩ và ý chí sắt đá của con người, có thể thực hiện bất cứ mục đích gì, nếu con người biết tận dụng 2 điều kiện tối thiểu như trên.
Chênh vênh dọc triền núi Hiei, nhìn xuống cố đô Kyoto, với từng ngọn gió thoảng qua chung quanh khu vực tu viện chùa chiền Enryaku-ji, bên trong là hàng loạt kinh kệ Phật, chúng ta có thể nhìn thấy vị thiền sư trẻ 34 tuổi Endo Mitsunaga, một trong những vị trụ trì của một ngôi chùa, thuộc trung tâm thiền viện trên.
Mọi sinh hoạt thao tác hành động, của thiền sư Endo đều chính xác nhanh gọn lẹ không thừa, không thiếu, từ những việc làm đơn giản nhất cho đến tụng kinh hoặc thiền định.
Mùa thu năm ngoái 2009, thiền sư Endo trở thành vị sư thứ 13, kể từ thế chiến thứ 2, hoàn tất hành trình tu tập “Senichi Kaihogyo”, 1,000 ngày thiền hành và cầu nguyện hơn 7 năm lien tục vòng quanh dãy núi Hiei. Thiền sư Endo đi bộ 26 dặm 1 ngày trong khoãng 100 ngày hoặc 200 ngày liên tục – 1 độ dài ngang bằng với đi bộ vòng quanh thế giới.
Cuộc hành hương vòng tròn:
Trong thiền phòng nhỏ bé đơn giản, thiền sư Endo quỳ trên sàn nhà “Tatami” và chậm rãi pha trà xanh. Theo lời Thiền sư thì thiền hành và thiền tọa đều giống nhau, thiền sinh cần phải có một tâm hồn thư giản tĩnh thức, một tư thế ngồi chững chạc, và theo dõi, cũng như giữ hơi thở nhịp nhàng đều đặn.
Cũng theo lời thiền sư, thì khi thiền hành vòng quanh dãy núi, thiền sinh cần phải tập trung chú niệm vào kinh Fudo Myo-o, nhằm điều khiển hơi thở, cũng như điều khiển ý thức.
Fudo Myo-o là 1 vị vua thông thái toạ thiền bất động, 1 hình ảnh quan trọng trong phật giáo Nhật Bản, với quần áo bằng vải thô, và tay cầm một thanh kiếm, chung quanh bộ áo cổ truyển Nhật Bản.
Thiền sư Mitsunaga thường cầm 1 cây quạt và 1 thanh đoản kiếm, mang 1 đôi dép bằng dây rừng, và mặc 1 bộ quần áo màu trắng, tượng trưng cho cái chết tại Nhật Bản.
Theo chuyên viên về phật giáo Nhật Bản, ông Robert Rhodes, thuộc trường đại học Otani, thành phố Kyoto, thì truyền thống “Kaihogyo” rất đặc biệt, vì truyền thống này chuyển hướng các cuộc tu học hành hương tâm linh trên núi, trở thành 1 vòng tròn tu tập lợi lạc.
Tu sĩ và thiền sinh thực hành truyền thống Kaihogyo, không chỉ thiền hành chung quanh dãy núi, mà thật ra họ còn phải tụng kinh, và lễ bái 260 chỗ khác nhau trên núi.
Truyền thống “Kaihogyo” được coi như là 1 tập tục cổ truyền Nhật Bản, tuy nhiên theo lời thiền sư Mitsunaga, thì thực hành truyền thống này không phải là khó, nó chỉ đòi hỏi thiền sinh cần bỏ ra nhiều thời gian và có tính kiên nhẫn bền bĩ.
Thiền sư Endo thiền hành 12 tiếng một ngày chung quanh triền núi, thời gian còn lại ông phải chăm sóc thiền viện, và mọi việc cần phải làm nhanh gọn, chính xác, nếu không thì ông không có thời gian để ngủ.
Trong suốt thời gianluyện tập và thực hành truyền thống “Kaihogyo”, Thiền Sư Mitsunaga thức dậy đúng 12:30 sáng sớm, và bắt đầu thiền hành xung quanh núi từ 2 giờ sáng đến 8 giờ sáng. Ông chăm sóc công việc chùa sau khi thiền hành, và ngủ mỗi ngày 4 tiếng rưỡi.
Thực nghiệm cái chết:
Sau 700 ngày, các thiền sinh Kaihogyo phải trãi qua 1 kỳ thi bao gồm : tụng kinh liên tục 9 ngày, không được ăn uống, ngủ và ngay cả nằm nghĩ. Cuộc thi này được gọi là “Thực Nghiệm Sự Chết”.
Cũng theo lời Thiền sư giải thích: thì nói 1 cách đơn giản là các thiền sinh phải từ bỏ tất cả và chỉ cầu nguyện và hướng tâm về hình ảnh “vua thông thái toạ thiền bất động”, theo phật giáo Nhật Bản thì chính nhờ những điều này mà thiền sinh khi trãi qua các kỳ thi có thể sống sót sau 9 ngày liên tục cầu nguyện, không ăn, không uống, không ngủ, không nghĩ.
Các thiền sinh trải qua kỳ thi này sẽ được coi như là tái sinh, và có nhiệm vụ truyền bá giáo pháp Đức Phật cho mọi người.
Luyện tập bản thân mình để giúp người khác:
Truyền thống thiền hành Kaihogyo dùng để luyện tập và rèn luyện bản thân, hầu sau này có đủ khả năng và nghị lực giúp đỡ mọi người.
1,000 ngày thiền hành chung quanh núi, được chia làm 2 giai đọan: 700 ngày và 300 ngày. Theo chuyên gia phật giáo Nhật Bản Rhodes, thì tỷ lệ 7:3 dựa trên từng tầng thiền khác nhau trong quá trình giác ngộ của Phật Giáo Nhật Bản.
7 giai đọan đầu, thiền sinh tự luyện tập cho bản thân về 2 mặt thể xác và tâm hồn, 3 giai đọan cuối thiền sinh thực hành quán niệm về sư hướng thượng giúp đỡ mọi người.
Dương Tiêu Dịch.
05/12/2010
Nguồn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=60,9153,0,0,1,0

Tuesday, May 11, 2010

Đại Học Northern Iowa Chuẩn Bị Đón Chào Đức Đạt Lai Lạt Ma.



Đại Học Northern Iowa Chuẩn Bị Đón Chào Đức Đạt Lai Lạt Ma.
By Lee Rood, Desmoine Register, May 9, 2010

Tin từ thủ phủ Desmoine, Tiểu Bang Iowa (Hoa Kỳ):
Ông ta được thừa nhận là Đức Đạt Lai Lạt Ma lần thứ 14 vào lúc 2 tuổi, lãnh đạo Tây Tạng vào lúc 15 tuổi, kể từ đó, vị lãnh tụ lưu vong đã viếng thăm 6 lục địa, tác giả của hơn 70 quyễn sách, đoạt giải Nobel Hòa Bình, và trở thành hình tượng văn hoá tâm linh.
Trên mạng lưới thông tin cộng đồng Face Book, Ngài thuyết pháp cho hơn nữa triệu phật tử và những người ủng hộ: “Điều lý thú về sự ăn cắp , tham lam, là ngay cả khi họ đạt được mục đích, họ cũng chảng bao giờ thoả mãn dục vọng.”
Trong một cuộc thăm dò ý kiến trên hệ thống internet gần đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma là người được thế giới chú ý phổ thông nhiều nhất chỉ đứng sau Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama. Tuy nhiên, có rất nhiều cư dân Iowa chỉ biết Đức Đạt Lai Lạt Ma, người sẽ đến trường đại học UNI tháng 5 ngày 18, qua nụ cười và những thông tin bao dung tha thứ của ngài trên mạng Internet.
Theo lời giáo sư James Robinson, trường đại học UNI, chuyên viên nghiên cứu phật giáo Tây Tạng thì Đức Đạt Lai Lạt Ma là một người nói sao làm vậy, và điều đó làm cho phật tử và những người hâm mộ khâm phục ngài.
Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn miêu tả mình là một tu sĩ bình thường, nhưng thật ra Ngài đã trở thành hình ảnh tiêu biểu của toàn thế giới.
Sau đây là sơ lược tóm tắt về cuộc đời của Đức Đạt Lai Lạt Ma, vị lãnh tụ tâm linh thế giới, trước cuộc viếng thăm đại học UNI vào tuần tới 18 tháng 5:
Ngài là ai :
Đức Đạt Lai Lạt Ma năm nay 74 tuổi, sinh trưởng trong 1 làng nghèo khổ thuộc tĩnh Taktser, quận Amdo, phía đông bắc Tây Tạng, cha là một người rất nghiêm khắc và mẹ là một người phụ nữ hiền hoà đảm đang. Gia đình ngài bao gồm 16 anh chị em, và chưa bao giờ biết rằng cậu bé 2 tuổi sẽ là vị lãnh đạo Tây Tạng thứ 14.
Ngài được tin tưởng là hoá thân truyền thừa của 13 vị Đạt La Lạt Ma trước đó. Được hỏi ngài có tin vào chuyện này hay không ? Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời:”
Thật là 1 câu hỏi khó khăn, tuy nhiên khi ngài nhận định kinh nghiệm và diễn biến suốt cuộc đời ngài hiện nay, và niêm tin phật pháp vô biên, Thật không có gì khó khăn gì để Ngài tin tưởng và chấp nhận rằng “bản thân ngài đúng là có sự lien hệ với 13 vị Đạt Lai Lạt Ma và ngay cả Đức Phật.”

Làm sao Ngài được chọn là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14:
Một nhóm trưởng lão Tây Tạng thuộc chính quyền,đã chứng nhận Ngài là hoá thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, khi cậu bé 2 tuổi nhận diện và quen thuộc tất cả vật dụng của Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ 13.
Làm Sao Ngài bị sống lưu vong:
Đức Đạt Lai Lạt Ma đào thoát khỏi Tây Tạng 5 thập kỹ trước đó, khi Trung Cộng xâm lăng Tây Tạng.
Ngài lãnh đạo Tây Tạng về 2 phương diện tâm linh và chính trị vào năm 1950, Năm 1954 đến Bắc Kinh để đàm phán với Mao Trạch Đông và các lãnh tụ Trung Cộng khác.
Năm 1959 buộc phải vượt biên ra khỏi Tây Tạng, cư ngụ tại Dharamsala, Ấn Độ cho đến ngày hôm nay.
Đức Đạt Lai Lạt Ma có 3 điều nguyện, theo lời giáo sư Robinson:” Đối với nhân loại, ngài nguyện giúp tăng trưởng đời sống tâm linh, sự hiểu biết, và đối với người dân Tây Tạng, Ngài mong mống sẽ có một cuộc thương nghị chung sống hoà bình giữa dân tộc Tây Tạng và Trung Hoa.”
Ngày nay, vì tuổi đã lớn uy thế chính trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma có phần giảm thiểu trong chính quyền lưu vong, tuy nhiên Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn luôn là nhân vật chủ chốt trong vấn đề Trung Cộng chiềm đóng Tây Tạng.
Tuần vừa qua, Ngài nhấn mạnh với giới truyền thong báo chí rằng mọi sự đấu tranh của người dân Tây Tạng, chỉ mong muốn có được 1 đất nước tự trị.

Giải Nobel Hoà Bình:
Năm 1989 ngài được trao tặng giải Nobel Hoà Bình, vì những công lao đòi hỏi quyền tự trị Tây Tạng bằng phương pháp bất bạo động. Ngoài ra Đức Đạt Lai Lạt Ma là người đầu tiên là ứng cử viên sáng giá vì những đóng góp tích cực cho sự cứu vản môi trường địa cầu đang bị hăm dọa và khủng hoãng.

Tại sao ngài chọn đến trường Đại Học UNI:
Trường đại học UNI thành lập ngân sách học bổng cho sinh viên Tây Tạng đang theo học tại UNI, vì thế Hiệu trưởng cũng như các giảng sư UNI đã mời Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng dạy thảo luận về giáo dục, cũng như giá trị của sự học hỏi và giảng dạy.
Theo Giáo Sư Robinson, thì trường đại học UNI đã làm tất cả trong mọi khả năng của trường, để Đức Đạt Lai Lạt MA và giới sinh viên phật tử có nhiều cơ hội tiếp xúc càng nhiều càng tốt.
Dương Tiêu Dịch
05/10/2010
Nguồn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=62,9147,0,0,1,0

Wednesday, May 5, 2010

Phương Pháp Quán Niệm Tính Tất Yếu Của “Sự Chết” Bằng Cách Thực Hành Và Đọc Trang Cáo Phó Mỗi Ngày.

Lời Tác Giả Như Quang và Dịch Giả DươngTiêu: “Với thời đại khoa học văn minh hiện nay, đời sống của con người thường bị xoáy lốc vào công việc mưu sinh, chúng tôi hy vọng bài viết này sẽ mang đến cho các phật tử 1 phương pháp lợi lạc tinh tấn trong khi vừa đối diện với thực tế cuộc đời, và thực hành giáo lý Đức Phật”
Phương Pháp Quán Niệm Tính Tất Yếu Của “Sự Chết” Bằng Cách Thực Hành Và Đọc Trang Cáo Phó Mỗi Ngày.
Phật Tử Đọc Cáo Phó Hàng Ngày Để Quán Niệm Về Tính Tất Yếu Của Sự Chết.
Sự Chuẩn Bi Bao Gồm: Việc Góp Nhặt Tư Lương Từ Các Thiện Sự.
Thông thường, các mục chú ý nhất cho các đọc giả trong khi đọc báo là những mục liên quan đến cuộc sống hàng ngày cơm áo gạo tiền gia đình bao gồm: thị trường chứng khoán, kinh tế, thể thao, văn nghệ, đời sống, tiểu thuyết, và hàng trăm chuyện linh tinh trong đời sống. Riêng tôi, trang cáo phó là trang chú ý nhất khi tôi đọc một tờ báo.
Thật tình mà nói có lẽ mọi người cho tôi là một kẻ rồ dại, nhưng theo tôi vấn để quán niệm về cái chết là một việc hết sức quan trọng, mà đôi khi theo bản chất tự nhiên, con người không bao giờ chú ý đến nó, cho đến khi sự chết hiện hữu ngay trước mắt.

Đối với phật tử, đọc cáo phó đếu đặn hàng ngày từ báo chí, cũng là một phương pháp quán niệm tĩnh thức không kém phần hữu hiệu, hầu nhắc nhỡ rằng đời người ai cũng không tránh được sự chết.

Bản thân tôi hoàn toàn không có họ hàng người thân ngay trong thành phố tôi đang sống, vì thế tôi đọc trang cáo phó của tờ báo thành phố không phải là để mong đợi hoặc giựt mình thấy danh sách tên họ thân hữu trong trang cáo phó.

Phải nói rằng, hàng ngày đọc trang cáo phó, những người qua đời đều xa lạ với tôi: từ kẻ giàu tới người nghèo, từ kẻ nổi tiếng đến người bình thường, từ kẻ đẹp tới người xấu, từ già đến trẻ, bao gồm đủ loại chủng tộc. Nhưng có một điều chắc chắn, hàng ngày tôi quán niệm và suy nghĩ khi đọc trang cáo phó , thì một điều tôi biết chắc chắn xảy ra cho mọi người, : “Ai Cũng Phải Chết”, và từ điều này tôi luôn luôn chuẩn bị tư lương hành trang cho cái chết bằng các thiện sự.

Cái chết đến với chúng ta vào bất cứ tình huống và độ tuổi: người thì qua đời vì tuổi già, kẻ thì qua đời khi chỉ là những em bé sơ sinh, và ngay cả những bào thai trong bụng mẹ.
Lại nữa người thì chết êm đẹp trong khi ngủ, kẻ thì qua đời bất ngờ trong các kỳ nghĩ lễ, và biết bao nhiêu tình huống khác. Vì vậy “Sự Chết” đến với chúng ta bất cứ lúc nào và chúng ta không bao giờ dự đoán được chúng ta sẽ chết như thế nào.

Thói đời, thiên hạ ai cũng nghĩ mình còn trẻ đẹp, khoẻ mạnh, sống lâu, cái chết, bệnh tật, ốm đau, những điều bất tường không may mắn chỉ xảy ra đến người khác, nhưng không bao giờ hoặc còn lâu lắm mới đến lượt mình.

Chúng ta sống trong sự hoang tưởng ảo mộng phù phiếm này, cho đến một ngày thần chết gõ cữa vào nhà. Và vào lúc đó, chính vì không chuẩn bị hành trang đón nhận, chúng ta sẽ đau khổ, dằn vặt, tiếc nuối: điều này có thể làm chúng ta vướng vào vòng luân hồi mãi mãi không bao giờ chấm dứt.

“Sống” còn có nghĩa là phải đương đầu với những thực tế không thể nào tránh khỏi: Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Trong bốn điều này, có lẽ “Sự Chết” là trạng thái quan trọng nhất, vì nếu chúng ta chuẩn bị hành trang tư lương thiện sự lúc sống, thì khi chết qua một kiếp sống khác, nói một cách bình dân là chúng ta sẽ vẫn mãi trôi lăn trong cõi ta bà dục vọng không biết khi nào mới thoát.

Trong tự điển bách khoa toàn thư Wikipedia, “Sự Chết” được định nghiã là một sự chấm dứt vĩnh viễn các hoạt động của các chức năng sinh học, trong các bộ phận của một cơ thể sinh vật.

Trong Trung Bộ Kinh, Kinh Chánh Tri Kiến, Đức Phật định nghĩa sự chết như sau:
“Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự mệnh một, từ trần, hủy hoại, hoại diệt, tử biệt, mệnh chung, hủy hoại các uẩn, vất bỏ hình hài; chư Hiền, như vậy gọi là chết.”

Nguyên nhân cái chết có nhiều, nhưng điều lý thú ở đây là ai cũng biết được ngày sanh tháng đẻ của mình, nhưng tuyệt đại đa số không ai tiên liệu được ngày tử tháng chết của mình, và dĩ nhiên chúng ta sẽ chết ra sao !

Mỗi chúng ta có thể chết dễ dàng do những nguyên nhân đề cập đến trong Kinh Tăng Chi, Kinh Niệm chết, (Tăng Chi 6, câu 20):
“Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi ngày vừa tàn và đêm vừa an trú, suy tư như sau : Các nhân duyên đem đến cái chết cho ta rất nhiều : Con rắn có thể cắn ta, con bò cạp có thể cắn ta, hay con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung. Như vậy sẽ trở ngại cho ta. Ta có thể vấp ngã và té xuống. Cơm ta ăn có thể làm ta mắc bệnh khi ăn, hay mật có thể khuấy động ta, đàm có thể khuấy động ta. Các gió như kiếm có thể khuấy động ta. Và như vậy có thể làm ta mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại”

Vì cái chết xảy ra một cách dễ dàng, cho nên tất cả chúng ta nên chuẩn bị đón nhận nó một cách kỹ lưỡng. “Sự Chết” là một hành trình quan trong nhất trong đời sống. Nó quan trọng hơn nhiều các chuyến du lịch nghĩ mát từ nước này sang nước khác. Tại sao vậy? khi chúng ta du lịch đến một đất nước xa lạ, chúng ta phải hoán chuyển ngoại tệ để tiêu xài, mua sắm, và sau đó khi trở về nơi cư ngụ cũ, chúng ta lại xài những đồng tiền quen thuộc địa phương nơi ta ở, Tuy nhiên khi nhắm mắt từ giã cõi đời để qua một kiếp sống khác, chúng ta cần có một số “hành trang , tư lương, thiện sự” để có một kiếp sống cao cả xứng đáng hơn kiếp trước.

Với sự hiểu biết và chuẩn bị hoàn hảo, chúng ta không nên sợ hãi “Sự Chết”, mà nên đối diện nhìn thẵng vào nó như là một chân lý thực tế hiễn nhiên.

Trong Kinh Tăng Chi, Kinh Akara, Đức Phật dạy cho chúng ta: với người đã sanh, không có bất tử. Trong Kinh Pháp Cú, kệ số 128, Đức Phật cũng dạy:
Trốn vào động thẳm hang sâu.
Ẩn vào núi vắng, non đầu, trùng khơi
Có đâu một chỗ trên đời
Tử thần lại chẳng đến lôi kéo về.
(Tỳ Kheo Giới Đức dịch)

Cuối cùng vì “ Sự Chết” là một điều không thể tránh khỏi, chúng ta nên chuẩn bị cho cuộc hành trình lià bỏ kiếp sống này, bằng cách suy niệm chính chắn, tĩnh thức sáng suốt về “Sự Chết”, và cố gắng tích luỹ thiện nghiệp như những hành trang đáng giá cho kiếp sống mai sau.
Tác Giả Anh Ngữ: Như Quang
Người Dịch: DươngTiêu
05/05/2010
Nếu có chút ít lợi lạc nào, chúng tôi nguyện xin chia phước lành đến tất cả.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Mùa Phật Đản

BUDDHISTS READ OBITUARIES DAILY TO BE MINDFUL OF DEATH’S CERTAINTY

Preparation also includes accumulating currency of good deeds


While many Journal readers check the stock markets or real estate section first, I like reading the obituaries when I receive my newspaper.

To many people, reading obituaries is a crazy habit and they don’t even want to hear any mention of death. To a Buddhist, this is a mindful practice as it reminds us that death is certain.

I do not have any relatives living in the province so I do not expect to see any familiar name in the obituaries. All names in the obituaries are foreign to me. From oriental last names such as Nguyen, Tran, Wong, Lee … to Western names such as MacDonald, White …, from the beautiful to the less attractive, from the old to the young, I see just one thing: they are dead and die at any age, in any occasion or circumstance.

Some died at 100 years of age, some died at a few months of age, some even died in the wombs of their mothers. Some died in their sleeps, some died while they were on wonderful vacations. These facts prove that everybody will die.

People always think we are young, healthy and live for forever. Sickness, death, or bad fortune just happen to other people. We live in this delusion until these things strike us and, without preparation, we do not know how to handle sickness, death, or bad fortune.

Living means dealing with unavoidable facts such as birth, aging, sickness, and death. Of these, death is the most important phase of our life as it will lead us to another life. Without preparation, death may lead us to endless samsaras.

In the Wikipedia encyclopedia, death is defined as a permanent termination of the biological functions that define a living organism. In Majjhima Nikaya, Sammaditthi Sutta, the Buddha defined death as the following:

“The passing of beings out of the various orders of beings, their passing away, dissolution, disappearance, dying, completion of time, dissolution of the aggregates, laying down of the body — this is called death.”

Causes of death vary. The Buddha taught us as laymen, we know our birth dates but we cannot know when we die and how we die. Any of us can die easily because of causes stated in Anguttara Nikaya, Maranassati Sutta (AN VI.20) the Mindfulness of Death:

“There is the case where a monk, as day departs and night returns, reflects: 'Many are the [possible] causes of my death. A snake might bite me, a scorpion might sting me, a centipede might bite me. That would be how my death would come about. That would be an obstruction for me. Stumbling, I might fall; my food, digested, might trouble me; my bile might be provoked, my phlegm... piercing wind forces [in the body] might be provoked. That would be how my death would come about. That would be an obstruction for me.”

Since death can happen easily, we should prepare for our death. Death is the most important adventure of our live. It is more important than travelling from one country to another. When we travel to a foreign country, we have to exchange our money for the currency of that country so that we can spend on what we want. Leaving this world for the world after our death, we also need some “currency” to use and that currency is the merits of our good deeds. With perfect preparation, we should not be afraid of death but should face death as a fact. In Anguttara Nikaya, Arakenanusasani Sutta, the Buddha taught us: For one who is born there is no freedom from death. In Dhammapada, verse 128, the Buddha also taught:
Not in the sky, nor in mid-ocean, nor in a mountain cave,
is found that place on earth where abiding one will not be overcome by death.
Because death is unavoidable, we should prepare for our departure by thinking about death, purifying our minds, and accumulating some merits as a special currency to take with us when we leave this world.
Author:
Như Quang

Tuesday, May 4, 2010

Tây Tạng: Nhìn Về Tương Lai

Phỏng Vấn Bởi Phóng Viên Jerry Guo, Tuần Báo NewsWeek, Hoa Kỳ, 29 tháng 4 năm 2010.

Dharamsala, Ấn Độ:
Vị tu sĩ chỉ mới 25 tuổi được biết đến như là một trong những nhà lãnh đạo phật giáo quan trọng nhất của Tây Tạng.
Ngài Karmapa thứ 17, tên thật là Ogyen Trinley Dorje, hiện đang được thế giới biết đến nhiều hơn qua mạng lưới cộng đồng toàn cầu “Face Book”, Ngài đã và đang thích ứng ít nhiều với nhịp điệp phát triển của khoa học hiện đại, bên cạnh các trò chơi giải trí điện tử Nintendo, cũng như sự hấp dẫn của 2 bộ phim “KungFu Panda” và “Avatar”.
Hơn thế nữa, Ngài Karmapa thứ 17 còn được công nhận là hóa thân của Tổ sáng lập Karmapa 900 năm về trước của giáo phái Kagyu, 1 trong 4 giáo phái lớn nhất tại Tây Tạng.
Ngài Karmapa thứ 17 đã đào thoát khỏi Trung Cộng trong 1 cuộc hành trình đầy nguy hiểm vượt qua núi non hiểm trở băng tuyết, bằng đủ mọi phương tiện ngựa, xe lữa, chạy bộ, trực thăng, leo núi, khi chính quyền trung Cộng muốn cưỡng ép và đào tạo ngài như một con rối trong chiến lược tôn giáo và cai trị Tây Tạng.
Chính vì những điều nêu trên, mà hiện nay đa số dân chúng Tây Tạng hy vọng Ngài sẽ là vị truyền thừa cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Sau đây là toàn bộ cuộc phỏng vấn của phóng viên Jerry Guo Tuần Báo NewsWeek Hoa Kỳ vào ngày 29 tháng 4 vừa qua.
Hỏi:
Được biết rằng ngài hiện nay sở hữu 1 cái Ipod và ngay cả 1 dàn chơi game điện tử Play Station?
Đáp:
Ai đó cho tôi cái Ipod, nhưng tôi đã tặng lại cho 1 người bạn, vì tôi không có nhiều thời gian, và Ipod có lẽ thích hợp với họ hơn. Một người khác tặng tôi máy chơi game điện tử Nintendo, thật ra thỉnh thoảng tôi có chơi các trò chơi điện tử, tôi cũng tìm thấy những điều thú vị và lợi lạc với Computer và Internet.
Hỏi:
Với sự giới hạn việc đi lại của chính phủ Ấn Độ, cùng với chuyến du lịch Châu Âu mùa hè năm nay bị hủy bỏ. xin Ngài cho biết, hệ thống internet đã ảnh hưởng và được xử dụng như thế nào trong phật pháp và tiếp cận với phật tử?
Đáp:
Tôi dùng internet để làm việc, đọc tin tức và nghiên cứu. Nó rất thuận lợi, vì tôi hiện nay bị quản thúc tại Ấn Độ. Ngoài ra tôi còn dùng email và hệ thống viễn thông đàm thoại online để thuyết pháp, cũng như liên lạc với phật tử. Tôi chỉ dùng internet được khoãng 1 năm, tuy nhiên đó là 1 phương tiện rất hữu hiện để tiếp xúc và truyền bá phật pháp cho mọi người.
Hỏi:
Tầm quan trọng của Internet cho một Tây Tạng dân chủ?
Đáp:
Đã có rất nhiều website Tây Tạng, vì thế chúng tôi dùng nó như những phương tiện, để tìm hiểu về tình hình Tây Tạng. Tôi không biềt rằng người dân Tây Tạng tại Trung Hoa có thể truy cập vào các trang nhà này hay không, nhưng chắc chắn các website Tây tạng là những nơi rất hữu ích để trao đổi thông tin, nghiên cứu và hội luận.
Hỏi:
Chuyến du lịch duy nhất của ngài là vào năm 2008 đến Hoa Kỳ, điều gì gây ấn tượng sâu sắc với Ngài về đất nước Hoa Kỳ?
Đáp:
Tôi rất bận rộn trong suốt 2 tuần du lịch sang hoa Kỳ, liên tục bay từ miền Đông sang miền Tây và ngược lại. Chuyến đi này giúp tôi hiểu rất nhiều về thế giới Tây phương nói chung và nền dân chủ của Hoa kỳ nói riêng.
Hỏi:
Bí thư Tây tạng do Trung Cộng chỉ định, ông Pema Thurley, tuyên bố rằng ngài là bạn và có trưng ra bằng chứng một lá thơ ngài viết rằng,:”Ngài sẽ không bao giờ phản bộ Trung Cộng, các tu viện, và chỉ đóng vai trò lãnh đạo tâm linh ”?
Đáp:
Thật ra, để tránh cho gia đình tôi hiện còn sống tại Tây tạng bị xách nhiễu và khủng bố, tôi buộc phải viết lá thư đó, trước khi đào thoát qua Ấn Độ, và cho đến nay tôi vẫn hoạt động tâm linh tôn giáo thuần tuý. Tuy nhiên nguyên nhân chính tôi chạy trốn khỏi Trung Cộng, vì tôi không muốn số phận mình giống như Đức Ban Thiền Lạt Ma đã bị Trung Cộng bắt cóc vào lúc chỉ mới 5 tuổi, và tôi không muốn làm con rối để chỉ trích Đức Đạt Lai Lạt Ma theo dàn dựng của chính quyền Trung Hoa.
Hỏi:
Xin cho biết quan hệ của Ngài và chính quyền cộng sản Trung Hoa ?
Đáp:
Hoàn toàn không có quan hệ trực tiếp kể từ khi tôi đào thoát đến Ấn Độ. Dĩ nhiên chính quyền Cộng Sản Trung Hoa, rất bất bình và bối rối trước sự việc này.
Hỏi:
Vai trò của Ngài trong vấn đề Tây Tạng, khi Trung Cộng không có thái độ phản đối bản thân và vai trò của Ngài?
Đáp:
Tôi sẽ tiếp tục phát triển và giúp đỡ Tây Tạng, bảo vệ truyền thống tập quán văn hoá, và lắng nghe lời hướng dẫn của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi sẽ làm tất cả những gì mang lại sự tốt đẹp cho dân tộc Tây Tạng trong khả năng.
Hỏi:
Nhiều người hy vọng rằng Ngài sẽ là người kế thừa Đức Đạt Lai Lạt Ma ?
Đáp:
Điều này không thực tế, đó chỉ là mong muốn của mọi người. Trong lịch sử 900 năm giáo phái Kagyu, các ngài Karmapa chỉ lãnh đạo về mặt tâm linh Tây tạng, mà không hề có một vai trò chính trị nào. Các Ngài Karmapa có quá nhiều trách nhiệm trong lĩnh vực hướng dẫn Tâm Linh Tinh Thần và Văn Hóa Tây Tạng, vì vậy việc kế thừa Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ là một vị khác.
Hỏi:
Ngày nay, tuổi trẻ tại Tây Tạng có khuynh hướng rời bỏ Đất Nước Tây Tạng, ngược lại giới trẻ Tây Tạng tại Ấn Độ lại có khuynh hướng di cư sang các nước phương Tây. Có cách nào để giải quyết chiều hướng này ?
Đáp:
Giữ gìn văn hoá cổ truyền Tây Tạng là một thử thách lớn, vì đất nước Tây Tạng hiện nay bị văn hoá Trung cộng bành trướng và ảnh hưởng. Lưu dân Tây Tạng lại bị ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hoá Tây phương. Vì vậy, chúng tôi phải tìm cách hoà hợp nền văn hoá dân tộc cổ truyền với nền Văn Hoá Hiện Đại. Trong các trường học Tây Tạng, chúng tôi học cả hai: Văn Hoá truyền thống tập quán cổ truyền, cũng như nền giáo dục hiện đại. Không có truyền thống văn hoá dân tộc, giá trị bản sắc của con người sẽ mất giá trị, Không có nền giáo dục hiện đại, con người không thể nào hoà nhập và song song tiến bước với thế giới văn minh ngày nay. Tôi sẽ cố gắng chuẩn bị cho dân tộc Tây Tạng cả hai phương diện này, hy vọng khi Đất Nước Tây Tạng được tự do độc lập, thì dân tộc chúng tôi sẽ có đủ khả năng và trình độ để xây dựng Đất Nước.
Hỏi:
Dường như Ngài muốn Tây Tạng là 1 nước độc lập hoàn toàn, hơn là 1 Tây Tạng tự trị?
Đáp:
Dĩ nhiên, tuy nhiên ở thời điểm hiện nay tôi luôn luôn đồng ý với con đường trung đạo của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngoài ra chúng tôi cần nhiều thời gian để cải thiện mối quan hệ giữa Tây Tạng và Trung Cộng Nếu con đường trung đạo thực hiện được, đó là một điều rất tốt. Nhưng dù sao đi nữa, chúng tôi cần phải bảo vệ nền văn hoá và tập tục cổ truyền Tây Tạng. Phật Giáo Tây Tạng được chào đón và phát triển sâu rộng khắp nơi trên thế giới, Vì thế Văn Hoá Tây Tạng rất quan trọng đối với nền Văn Hoá Toàn Cầu.
Người Dịch: Dương Tiêu
Nguồn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=9,9126,0,0,1,0
05-04-2010

Monday, April 26, 2010

Kính Thày Giác Đẵng,

Kính Thày Giác Đẵng,
Cách đây 5 năm 2005 thày đã giảng cho chúng con 1 bài thật hay về 30 năm tháng tư đen đối với người phật tử Việt Nam, Nay Chúng Con xin mời thày 5 năm sau giảng lại cho chúng con vào ngày thứ 5 này về 30 tháng 4 2010, kỷ niệm 35 năm Black April.
Chúng con kính cung thỉnh thày giảng vào Tối Thứ Năm vào lúc 7:00pm Ca tức 9:00pm Houston ngày 29 tháng 4 năm 2010 về đề tài:

35 Năm nhìn lại biến cố 30 tháng 4 và lời kêu gọi cùa Đại Lão Hoà Thượng Quãng Độ " Hãy Cùng Nhau Đứng Lên Xuân Canh Dần - Trước Nguy Cơ Mất Nước và Huỷ Hoại Nền Văn Hoá Dân Tộc Việt Nam."
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Chúng Con:
Dương Tiêu, Dạ Lan, Như Không

Monday, March 29, 2010

Trung Cộng Đang Tìm Cách Xóa Sổ Phật Giáo

Trung Cộng Đang Tìm Cách Xóa Sổ Phật Giáo

Robert Thurman. Huffington Post. Ngày 19 tháng 3, 2010.

“Bọn họ đưa các tăng và ni vào trong những hoàn cảnh giống như lao tù, cướp đoạt đi cơ hội được yên tâm tu học và hành đạo của họ,” Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói vào ngày 10 tháng 3, lên án Trung cộng đang hành động để “cố tình tiêu diệt Phật giáo.”

Thêm một lý do nữa để tôi thấy hãnh diện về Đức Đạt Lai Lạt Ma khi Ngài mạnh mẽ lên tiếng về chính sách đàn áp của Đảng Cọng Sản Tàu đối với các tăng sĩ Phật giáo tại Tây tạng [khắp mọi nơi tại Tây Tạng]. Các giới chức Cọng Sản Tàu không ngừng bôi nhọ Đức Đạt Lai Lạt Ma bằng thứ ngôn ngữ căm ghét và mất lễ độ nhất, và trong lúc đang tiến hành các cuộc đàm phán với các đại diện của Ngài, đồng thời chối là bọn chúng đã không làm như vậy, bọn chúng nói về Ngài một cách phạm thượng, và lên án Ngài với hết tất cả những điều phi lý.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã rất hòa nhã trong những lời nói của Ngài về Trung cộng, cho đến cuối năm ngoái hay hai năm về trước, và khi Ngài chỉ đơn thuần tường trình sự thật rằng chính sách và hành động của Cọng sản Tàu là coi Phật giáo Tây tạng là phản loạn thì báo chí quốc tế gọi việc đó là “mắng nhiếc!” Năm nay, thật sự chính tôi đã có mặt trong đám người đó, và lời lẽ của Ngài rất từ tốn và bình tỉnh khi Ngài tường thuật lại các chứng cớ tồi tệ mà không có lời công kích nào cả.

Kể từ năm 1993, khi Đảng Cọng sản tổ chức “Hội Thảo Làm Việc Lần Thứ Ba” về Tây tạng, ông chủ của đảng vào lúc bấy giờ, Dương Thượng Côn, tuyên bố rằng chính Phật giáo Tây tạng là “kẻ ly khai”, bởi vì các tín đồ Phật giáo Tây tạng coi Đức Đạt Lai Lạt Ma là một hoá thân của vị thần hộ mạng cho người Tây tạng, một Quán Thế Âm Bồ Tát, và do đó lòng trung thành của họ đối với Ngài không thể lay chuyển. Vì vậy, một chính sách được đặt ra bởi Đảng Cọng sản Tàu - một chính sách giống hệt như nhà cầm quyền Trung cọng – là tiêu diệt Phật giáo Tây tạng, để ngăn chận lòng yêu thương của người Tây tạng đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma và ép họ phải xác định họ chính là những công dân trung thành của “Mẫu Quốc” Tàu.

Trong việc đưa ra một chính sách như vậy, bọn chúng đã lao đầu vào một việc không thể làm được, như 17 năm sau đó đã cho thấy. Việc đầu tiên bọn chúng đã làm là nuốt lời hứa đối với một yêu cầu lúc đầu để nhờ Đức Đạt Lai Lạt Ma tìm và công nhận vị Ban Thiền Lạt Ma, người đã viên tịch một cách bất ngờ vào năm 1989. Vào thời điểm đi tìm vị tái sanh của Ban Thiền Lạt Ma, hội đồng Tashi Lhunpo được cho phép hỏi ý kiến của Đức Đạt Lai Lạt Ma, do vì những kẻ trông coi các vấn đề tượng trưng tại Tây tạng trước đó muốn dùng vị tân Ban Thiền Lạt Ma như một nhân vật bù nhìn hàng đầu, và bọn chúng biết quá rõ rằng người dân Tây tạng sẽ không bao giờ chấp nhận bất cứ một vị Ban Thiền Lạt Ma nào mà không do Đức Đạt Lai Lạt Ma chọn lựa. Tuy nhiên, vào thời điểm của các giai đoạn cuối cùng trong quá trình xác nhận, Đảng Cọng sản Tàu tuyên bố rằng chỉ có Đảng và chỉ một mình Đảng mới có quyền công nhận các vị tái sanh, và chúng đã chủ tâm phủ quyết lưạ chọn của Đức Đạt Lai Lạt Ma (và bắt giam em bé, Gendun Chokyi Nyima, và gia đình của em cùng những người kèm học và đã biệt giam họ không còn ai biết kể từ đó đến nay), và chúng đã đưa một đứa bé trai do chúng lưạ chọn lên ngôi vị.

Các quan sát viên đã không để ý rằng sự thay đổi chính sách này là kết quả của một kế hoạch tiêu diệt Phật giáo Tây tang. Tại sao vậy? Bởi vì bọn chúng đã quá biết rằng người dân Tây tạng và các tăng sĩ Tây tạng sẽ không chấp nhận lựa chọn của bọn chúng, do đó, thay cho một vị Lạt ma bù nhìn, người sẽ mở miệng truyền thông điệp của bọn chúng đến với những người Tây tạng nhẹ dạ, chúng đã dựng lên một chiến dịch hạch hỏi lâu dài, tự động để loại trừ tận gốc rễ các tăng và ni và các vị lạt ma Tây tạng tu hành một cách chân chính, bởi vì khi những vị này bị ép phải tuyên thệ trung thành với vị tái sanh do Cọng sản lựa chọn thì những vị tu hành chân chính này sẽ từ chối, và sẽ bị đuổi ra khỏi các tu viện của họ, bị bỏ tù, tra tấn, và suốt đời bị gắn danh hiệu “những kẻ ly khai.” Nói một cách khác, âm mưu này, được tiến hành từ năm 1995 đến nay, là một thay đổi chiều hướng rõ rệt bởi Đảng Cọng sản Tàu. Trước đó, kể từ ngày tàn của cuộc cách mạng văn hóa, chính sách của Cọng sản Tàu là chấp nhận không thể huỷ diệt Phật giáo Tây tạng trong tâm của người dân Tây tạng và cố lợi dụng Phật giáo để có thể tồn tại cùng với chế độ Cọng sản Tàu. Từ năm 1993 trở đi, chính sách này đã trở thành phải tuyên bố Phật giáo Tây tạng chính là “kẻ ly khai,” phải tà quỷ hoá Đức Đạt Lai Lạt Ma, phải xua đuổi các bật tu hành Phật giáo chân chính ra khỏi các tu viện của họ, và lập ra một thế hệ Cọng sản, vô thần, “Tàu”, Tây tạng mới. Trong một ý nghĩa rất rõ ràng, chính sách này đang là một sự trở lai một dạng xảo quyệt hơn của cuộc “Đại Cách Mạng Văn Hóa,” chỉ cho riêng Tây tạng, trong khi cái thế giới tại vùng đất thấp ở Trung cọng, cuộc cách mạng văn hóa trước đó chính là một tai hoạ. Trong thực tế, một số lãnh đạo các cuộc cách mạng văn hóa, chẳng hạn như tên bỉ ổi Ragdi và những tên khác, những kẻ trước đó đã được để dành cho những dịp như vậy, đã được “tái phục chức vị” và đặt lên để cai trị Tây tạng.

Nếu bạn nhìn vào bức tranh tổng quát hơn ở bên trong của toàn Hoa lục, thời điểm của sự thay đổi chính sách này đối với Tây tạng và sự trở về với nổ lực vô ích để nhồi ép ý thức hệ Cọng sản lên người dân có niềm tin tâm linh của Trung cọng quả thật đã đi song song với cuộc viễn chinh hoang đường của Giang Trạch Dân chống lại Phá Luân Công tại Hoa lục. Dĩ nhiên là Phá Luân Công, vốn là một tập hợp gồm Phật giáo, Lão giáo, và yô-ga, chẳng có dính dáng gì đến Phật giáo Tây tạng, nhưng môn phái này cũng tương tự không thể chấp nhận được đối với giới chóp bu Cọng sản vì nó là một phong trào bao rộng dựa vào tâm linh và coi các giá trị tâm linh cao trọng hơn lòng trung thành đối với đảng và chế độ Cọng sản. Trong sự nô lệ vào huyền thoại do các tập đoàn thương nghiệp dựng lên về nền thương nghiệp của Trung cọng và việc hoàn toàn chuyển qua chủ nghĩa tư bản, các quan sát gia Tây phương đã quên sự thật rằng Mao đã lập ra một thứ tôn giáo tôn thờ chế độ Cọng sản với chính hắn ta là vị thánh đang đương nhiệm, để duy trì tôn giáo này hắn ta phải nhổ tận rễ bằng vũ lực: tất cả các ý thức hệ và tổ chức tôn giáo đang hiện diện. Sau ngày chết của hắn ta và sau chiến dịch chủ nghĩa thực dụng của họ Đặng, tôn giáo tôn thờ chế độ này đã mất đi vị trí trong lòng người dân Trung hoa, nhưng chủ nghĩa tư bản đầu xỏ chính trị không thể công khai phát triển như là một sự thay thế cho ý thức hệ và tổ chức của tôn giáo này, bởi vì người dân Trung hoa đã có một hướng tâm linh mạnh mẽ, và phần lớn những người này vẫn còn là những nô lệ của chủ nghĩa đầu xỏ chính trị đó. Bởi vậy, giới lãnh đạo Cọng sản thích liều lĩnh xử dụng chủ nghĩa quốc gia quá khích hơn là đổ thừa cho việc ủng hộ các thể chế và lối sống tư bản và đánh lạc hướng sự căm ghét của số đông bị loại trừ. Tuy vậy, nhận biết được các giới hạn của chiến lược này, bọn chúng cảm thấy rằng chúng không thể cho phép người dân thực hành tín ngưỡng, sự phong phú về tôn giáo của Trung hoa đang đâm chồi trong bí mật, để hiện ra trong huy hoàng đa nguyên của nó, bởi rồi thì sự thần thánh hóa chế độ mà bọn chúng đang trong cậy vào từ ngày đầu của cuộc cách mạnh sẽ không thể còn được nữa. Và nếu có ai quan sát cuộc diễn hành quân sự mừng lần thứ 60 ngày thành lập chế độ Cọng sản, Thượng Đế Mao một lần nữa lại xuất hiện giữa những bước chân ngỗng và màn phô trương vũ khí.

Bởi vậy chẳng có gì đáng tranh cãi về lời nói của Đức Đạt Lai Lạt Ma rằng Đảng Cọng Sản Tàu tiếp tục chỉ thị cho các ông chủ đảng tại toàn khu vực Tây tạng phải tiếp tục việc huỷ diệt Phật giáo Tây tạng. Đó không phải là một lời “mắng nhiếc”, hay một câu nói khích động. Đó là một lời công bố sự thật đơn giản, một lưu ý về chính sách công khai của Đảng Cọng Sản Tàu và việc thực hành chính sách đó trong 17 năm trường. May mắn thay, chính sách này và các việc thi hành của nó sẽ không thể đạt mục tiêu của chúng, cũng như chiến dịch Mao hoá “cải cách tư tưởng” nhồi sọ và sự huỷ diệc văn hoá dữ dội và đầy bạo lực từ năm 1959 đến 1979 đã thất bại trong việc loại trừ Phật Pháp và lòng yêu thương Đức Đạt Lai Lạt Ma khỏi trái tim của người Tây tạng.
Phạm Dao Dịch

Tuesday, February 16, 2010

Người Dân Tây Tạng Không Ăn Mừng Tết Năm Thứ Hai

Ashwini Bhatia. Associated Press. Ngày 14 tháng 2, 2010.
 
Dharamsala, Ấn độ - Người Tây tạng đã quyết định không ăn mừng Tết Nguyên Đán năm thứ hai để tưởng nhớ sự khổ nhục của người dân tại quốc nội Tây tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói trong ngày Chủ nhật.  
Vị lãnh tụ tâm linh người Tây tạng đã kêu gọi tín đồ của Ngài đừng mất hy vọng, và Ngài nói rằng nhân dân Tây tạng tại quốc nội đã biểu lộ một sự can đảm và chân thành lớn lao trong việc đối mặt với sự đàn áp của Trung cọng sau các cuộc nổi dậy vào tháng 3, 2008.
Năm ngoái, những người Tây tạng sống lưu vong cũng đã không ăn mừng Tết Nguyên Đán. Tết Nguyên Đán bắt đầu vào ngày thứ Bảy là ngày quan trọng nhất trong năm tại Trung hoa.
“Người Tây tạng chỉ tổ chức các buổi lễ tôn giáo và không ăn mừng Xuân,” Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói với hơn 1 ngàn người Tây tạng lưu vong đang mặc các bộ áo quần truyền thống mới và chào đón Ngài tại chùa Tsuglakhang.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã làm chủ lễ một buổi cầu nguyện, được tham dự bởi các cao Tăng và quốc hội Tây tạng. Những người Tây tạng đã đánh trống và xập xoàng trong buổi lễ kéo dài 2 tiếng đồng hồ trong khuông viên chùa.
Một nhóm người Tây tạng trẻ tuổi, được dẫn đầu bởi Tenzin Tsundue, một văn sĩ và nhà hoạt động chính trị, phất những lá cờ Tây tạng bên ngoài chùa và hô to “Trả Lại Tự Do Cho Tây Tạng.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ gặp Tổng thống Barack Obama tại Washington vào thứ Năm tuần tới. Trung cọng đã hối thúc Washington huỷ bỏ buổi gặp mặt và nói rằng cuộc gặp gỡ sẽ làm thiệt hại các mối quan hệ Mỹ-Trung.
Trung cọng cáo buộc Đức Đạt Lai Lạt Ma là thúc đẩy để giải phóng Tây tạng khỏi ách cai trị của Trung cọng, một cáo buộc Ngài đã phủ nhận.
Ngài đang sống tại tỉnh lỵ Dharamsala thuộc miền bắc Ấn độ kể từ ngày Ngài vượt biên thoát khỏi Tây tạng 50 năm trước đây khi quân đội Trung cọng tiến vào chiếm đóng Tây tạng.
Trung cọng khăng khăng nói rằng Tây tạng là một phần lãnh thổ của Tàu trong hàng nhiều thế kỷ, nhưng nhiều người Tây tạng nói rằng khu vực này trong thực tế là một vùng độc lập trong phần lớn lịch sử của nó.
Phạm Dao

Thursday, January 28, 2010

Cuộc Chiến Bí Mật Của Việt Nam Chống Lại Các Tín Đồ Phật Giáo Tại Hải Ngoại

Tại Việt Nam, hàng trăm tăng sĩ được huấn luyện để xâm nhập vào các chùa tại hải ngoại với mục đích tiêu diệt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất

Scott Johnson. The Epoch Times. Ngày 25 tháng 1, 2010.

Việt Nam đang tiến hành một cuộc chiến tàn bạo và bí mật đối với dân chúng Phật tử của quốc gia này trong hàng mấy thập niên qua. Vào năm 1981, nhà cầm quyền đã công khai cấm Giáo Hội Phật Giáo lâu đời và chính thống nhất của Việt Nam, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN).

Những người cộng sản đã tấn công truyền thống 2000 năm và dựng lên một Giáo Hội Phật giáo khác bị chỉ đạo bởi chế độ.

Những ai không chịu trung thành với giáo hội mới đều bị tù đày, tra tấn, và ngay cả tàn sát.

Vị lãnh tụ đương thời của GHPGVNTN, nhân vật được đề cử giải thưởng Nobel Hòa Bình, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, đang bị quản chế tại Việt Nam trong 26 năm qua.

Cuộc đấu tranh của Ngài đã bắt đầu nhiều năm trước đây, khi Ngài còn là một tăng sĩ trẻ và đã chứng kiến cảnh những người cộng sản xử tử sư phụ của Ngài.

Bị coi là một nhân vật chống đối, Hòa Thượng Quảng Độ và các bạn đồng tu của Ngài là trọng điểm của cuộc khủng bố ở trong, và hiện nay ở ngoài, nước Việt Nam.

Chỉ vài ngày sau khi các tăng sĩ tại một ngôi chùa Phật giáo tại Tây Úc tố cáo chính sách đàn áp tôn giáo của Hà nội, các tôn tượng Phật tại ngôi chùa này đã bị đập gãy đầu. Vụ việc này xảy ra vào tháng 10 và 11, 2009.

Vụ đánh phá tôn tượng lần thứ nhất xảy ra sau khi thầy trụ trì của ngôi chùa, đại diện của GHPGVNTN tại Úc châu, tham dự một cuộc hội thảo Phật giáo tại Los Angeles, tại đây các đại diện của Giáo Hội đã tuyên bố quyết tâm chống lại kế hoạch của Hà nội nhằm tiêu diệt GHPGVNTN.

Vụ phá hoại lần thứ hai xảy ra sau khi vị tăng nói trên bảo trợ một phái đoàn của GHPGVNTN tại hải ngoại đến gặp chính phủ Úc tại Quốc Hội, thành phố Canberra. Cuộc gặp gỡ được tổ chức để khuyến cáo chính phủ Úc về việc đàn áp tôn giáo của Hà nội trong sự chuẩn bị cho cuộc đối thoại nhân quyền Úc-Việt sẽ diễn ra vào tháng 12.

Như vậy thì việc đánh gãy đầu các tôn tượng rõ ràng được coi là một lời cảnh cáo đến với các Phật tử tại Úc. Đối với Hà nội, hậu quả của việc các Phật tử lên tiếng về những chà đạp nhân quyền rất có ảnh hưởng chính trị rộng rãi vì chế độ độc tài tại Việt nam đang bị gia tăng áp lực trên toàn thế giới phải chấm dứt đàn áp tôn giáo.

Tại Hoa Kỳ, chính trong năm 2004 Bộ Ngoại Giao lần đầu tiên đã chỉ định Việt Nam là một “Quốc Gia Đáng Quan Tâm Đặc Biệt” (CPC), danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo thậm tệ. Việc chỉ định CPC có liên quan đến các trừng phạt kinh tế, do đó đã đưa đến việc Hà nội quyết tâm bịt miệng bất cứ lời chỉ trích nào.

Tuy vậy, Washington và Hà nội đã đạt được một sự thoả thuận về cải cách vào năm 2006, với một sự hiểu biết rằng Việt Nam sẽ được ra khỏi danh sách CPC.

Thật vậy, Việt Nam đã được đưa ra khỏi danh sách CPC và mãi đến nay những cải cách được hứa hẹn vẫn chưa bao giờ xảy ra.

Trên thực tế, Hà nội đã gia tăng đàn áp mà Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền đã cáo buộc nhà cầm quyền “tiến hành một trong những cuộc đàn áp tàn bạo nhất trong 20 năm đối với những nhà bất đồng ôn hòa.”

Kể từ đó, những lời kêu gọi đưa Việt Nam vào lại danh sách CPC, chẳng hạn như của Ủy Ban Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo, vẫn không được thực hiện.

Ngày nay, Hà nội chỉ hoán dạng các lực lượng an ninh trong việc áp dụng những cơ cấu đàn áp tôn giáo bí mật hơn.

Những cơ cấu bí mật này liên quan đến việc khuếch trương những cái gọi là chùa “hợp pháp” trong cùng một lúc đàn áp các chùa “bất hợp pháp” không chịu nộp mình cho sự kiểm soát của cộng sản. Các tổ chức tôn giáo khắp Việt Nam - Phật giáo, Cơ đốc Giáo người Thượng và Hmong, Công giáo, Hòa Hảo và Cao đài, và những nhà bất đồng khác như các nhà cổ xuý dân chủ, các nhà báo và bloggers - tất cả đều phải chịu những hành động áp bức như nhau.

Chủ tâm của Hà nội là một chính sách “chia rẻ và chế ngự” bao gồm việc xâm nhập vào các tổ chức bất đồng tại hải ngoại.

Các Chỉ Thị Chính Sách Bí Mật Của Hà Nội

Lạ lùng thay, bằng chứng về chính sách đàn áp của Hà nội xuất thân từ các tài liệu được ấn hành của nhà cầm quyền.

Phòng Thông Tin Phật giáo Quốc Tế đặt tại Paris đã vạch trần các chỉ thị chính sách đặc biệt nói rõ chủ tâm đánh phá các nhà bất đồng tại hải ngoại của Hà nội.

Phát ngôn nhân tại hải ngoại của GHPGVNTN, Võ Văn Ái, đã tường trình trước Quốc Hội Hoa Kỳ về bằng chứng này. Nói chuyện trước Ủy Ban Đối Ngoại Hạ Viện vào ngày 20 tháng 6, 2005, ông Ái đã trích dẫn những mệnh lệnh rõ ràng của Hà nội ra lệnh cho các lực lượng an ninh của Việt Nam phải “xoá sổ dứt điểm Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang.”

“Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang” là danh từ của Hà nội chỉ về GHPGVNTN và các chỉ thị bí mật, được xuất bản bởi Viện Khoa Học Công An tại Hà Nội có tựa đề “Về Tôn Giáo và Cuộc Đấu Tranh Chống Lại Các Hoạt Động Lợi Dụng Tôn Giáo – Tài Liệu Tham Khảo, Lưu Hành Nội Bộ Ngành Công An Nhân Dân.”

Penelope Faulkner, một nhà hoạt động lâu năm với Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, tường trình rằng tài liệu mật chỉ thị các lực lượng của đảng và các nhân viên an ninh thuộc mọi cấp phải “chống phá, đàn áp, cô lập, và chia rẻ” các vị lãnh đạo GHPGVNTN. Bà nói, “Tài liệu mật chỉ thị việc huấn luyện các nhân viên tình báo đặc biệt để xâm nhập vào GHPGVNTN, không những chỉ để thâu lượm tin tức và tình báo về các hoạt động của GHPGVNTN mà còn tạo ra các sự ly gián và bất đồng trong hàng ngũ lãnh đạo, từ đó làm suy yếu GHPGVNTN từ trong ra.”

Theo lời của bà Faulkner, những “tình báo viên đặc biệt” này đã nới rộng các hoạt động ra đến hải ngoại với Úc là một trường hợp thử nghiệm cho chiến lược của họ.

Úc Đại Lợi - Trường Hợp Thử Nghiệm

Faulkner nói rằng Hà nội đã thiết lập những “tiền phương” của chế độ để làm suy yếu các tổ chức tôn giáo hải ngoại và các nhà hoạt động dân chủ và đã gởi hàng trăm tăng sĩ “được chế độ bảo trợ” đến Úc và Hoa Kỳ.

Tổ chức chính hiện đang đánh phá GHPGVNTN đã được thành lập trong một cuộc thảo luận tại Sydney, Úc vào ngày 1 tháng 1, 2009. “Tiền phương” này hoạt động dưới cái tên “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Liên Châu.”

Faulkner nói rằng kế hoạch của những tiền phương này “không phải là để tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản, mà để nói với Phật tử rằng họ không nên dính líu đến chính trị, chỉ chuyên cầu nguyện và gởi tiền về Việt nam và không tham gia vào phong trào tự do tôn giáo và nhân quyền.”

Bà Faulkner không nghi ngờ gì rằng Hà nội có nhúng tay vào việc hăm doạ các Phật tử tại hải ngoại và bà trích lời từ tài liệu mật ra lệnh cho các giới thẩm quyền Việt nam phải “ra tay trước để cản trở các quốc gia Tây phương đến điều tra nhân quyền” tại Việt Nam.

Tài liệu mật viết, “Chúng tôi thúc dục Bộ chính trị phối hợp các hoạt động giữa các bộ Tuyên truyền và cơ động, bộ nội vụ, bộ ngoại giao, bộ tôn giáo và người Việt tại hải ngoại thuộc đảng cộng sản Việt Nam làm việc với nhau trong chính sách này.”

Một thành viên của “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Liên Châu” này, một tu sĩ Phật giáo có cơ sở tại Sydney, đã được thấy vào ngày 26 tháng 11, 2009, tại Toà Hạ Viện tại Canberra đang chuyện trò cùng với hàng chục sĩ quan an ninh cao cấp của Việt nam. Đó cũng là ngày phái đoàn GHPGVNTN tại hải ngoại gặp gỡ chính phủ Úc.

Một vài ngày sau đó, ngôi chùa của GHPGVNTN tại Tây Úc bị phá hoại.

Bà Faulkner là một trong các đại diện của phái đoàn GHPGVNTN, và mặc dù bà công nhận rằng những viên sĩ quan an ninh này có thể đang có mặt tại Quốc Hội Úc cho các vấn đề ngoại giao, bà không nghi ngờ gì rằng họ đã báo cáo cho các cấp trên của họ tại Hà nội về việc nhìn thấy phái đoàn GHPGVNTN tại Quốc Hội Sảnh.

Bà cũng chắc chắn rằng vụ phá hoại ngôi chùa tại Tây Úc cũng không phải là ngẫu nhiên.

Vào tháng 1, 2010, tác giả bài báo này đã đến Chùa Việt Nam tại Perth, Tây Úc và đã nói chuyện với vị tăng trụ trì, Thượng Toạ Thích Phước Nhơn. Thầy ôm trong tay đầu của một trong hai tôn tượng Phật bị đánh và nói Hà nội từ lâu đã cố xoá sổ chùa của GHPGVNTN.

Thượng toạ Phước Nhơn cũng nói trong năm 2009, Ngài nhận được một phong thư nặc danh chứa tờ “giấy mã” vàng bạc. Tờ giấy là một truyền thống đám tang cổ xưa, và Ngài nói chỉ có một sự giải thích cho lá thư nặc danh này: “một lời đe doạ tính mạng.”

Các thành viên của ngôi chùa của Ngài tại Sydney và Melbourne cũng nhận được những lời đe doạ qua điện thoại, Ngài nói.

Thượng toạ Phước Nhơn nói tôn tượng sẽ được tu sửa.

Scott Johnson là một luật sư, nhà văn và nhà hoạt động nhân quyền chú trọng vào các vấn đề về Đông Nam Á.

Phạm Dao Dịch
(http://www.theepochtimes.com/n2/content/view/28633/)

Wednesday, January 27, 2010

Tay chân của Bộ Trưởng Tích Lan Giết Tăng Sĩ

Thư ký của ông Mahindananda Aluthagamage, một bột trưởng có quyền lực của nhà cầm quyền và đám công đồ tay chân của hắn ta đã xông vào chùa Sri Bodhirajaaramaya Pririvena tại Nawalapitiya và bắn chết Hòa Thượng Matara Wimalananda Thero, các bản tường trình cho biết. Một trong những tên côn đồ tham gia vụ ám sát cũng bị thiệt mạng trong lúc nổ bom tại ngôi chùa.

Thư ký chính phủ và đám côn đồ đã đến chùa bằng chiếc xe Jeep Montero, một chiếc tắc-xi đôi, và một chiếc xe khác và chúng đã bắn súng xối xả. Một ngôi nhà gần chùa cũng bị thiệt hại và một vị Tỳ kheo khác trong chùa đã bị bắn đả thương.

Cũng có bản tường trình cho hay rằng chiếc xe được lái bởi viên thư ký của bộ trưởng đã bị lật trong lúc cố tháo chạy.

Trong khi đó, lệnh giới nghiêm đã được thiết lập tại Gampola và Mawalapitiya thuộc quận Kandy, cảnh sát đã cho biết.

Monday, January 25, 2010

Vietnam intensified its suppression of dissent in 2009 in an effort to bolster the authority of the Communist Party

Vietnam intensified its suppression of dissent in 2009 in an effort to bolster the authority of the Communist Party. Authorities arrested dozens of peaceful democracy advocates, independent religious activists, human rights defenders, and online critics, using vaguely-worded national security laws such as spreading "anti-government propaganda" or "abusing democratic freedoms." The courts convicted at least 20 political or religious prisoners in 2009, including five people sentenced in October whom the previous month the United Nations Working Group on Arbitrary Detention had determined to be arbitrarily detained. People imprisoned in Vietnam for the exercise of fundamental rights number more than 400.

The government tightened its controls on internet use, blogging, and independent research, and banned dissemination and publication of content critical of the government. Religious freedom continued to deteriorate, with the government targeting religious leaders-and their followers-who advocated for civil rights, religious freedom, and equitable resolution of land disputes.

Repression of Political Opposition

In an effort to eliminate challenges to the Communist Party and curb social unrest in advance of a key June 2009 party plenum, in May the government launched a wave of arrests, detaining 27 people for alleged links to the banned Democratic Party of Vietnam (DPV). At least five were prosecuted on national security charges, including prominent lawyer Le Cong Dinh; their trial is pending at this writing. The arrests of at least eight other dissidents, bloggers, and political activists followed.

Freedom of Association and Assembly

The government bans independent trade unions and human rights organizations, as well as opposition political parties. Workers are prohibited from conducting strikes not authorized by the party-controlled labor confederation. Activists who promote workers' rights and independent unions are harassed, arrested, or jailed.

While government officials often tolerate farmers gathering in Hanoi and Ho Chi Minh City to file complaints about land confiscation or local corruption, political protests are generally banned. Police crackdowns on protests-especially those in the countryside-often take place away from the public spotlight. In May, for example, police dispersed demonstrations in the Mekong delta by ethnic Khmer farmers protesting land grabbing, and arrested Huynh Ba on charges of organizing the protests. Since his arrest, he has been held incommunicado in Soc Trang prison.

Freedom of Religion

Vietnamese law requires that religious groups register with the government and operate under government-controlled management boards. Adherents of some unregistered religious groups, as well as religious activists campaigning for internationally-guaranteed rights, are harassed, arrested, or placed under house arrest.

In the Central Highlands, authorities in 2009 arrested dozens of Montagnard Christians accused of belonging to unregistered house churches considered subversive by the government, planning land rights protests, or conveying information about rights abuses to activists abroad. A focus of the crackdown was Gia Lai province, where more than 50 Montagnards were arrested and at least nine sentenced to prison during the year. On several occasions police beat and shocked Montagnards with electric batons when they refused to sign pledges to join the government sanctioned church.

Authorities continued to persecute members of the banned Unified Buddhist Church of Vietnam, whose supreme patriarch remained under pagoda arrest for his public criticism of government policies. Other religious activists imprisoned in Vietnam include Roman Catholic priest Nguyen Van Ly, a Mennonite pastor, and several Hoa Hao Buddhists.

In July as many as 200,000 Catholics peacefully protested in Quang Binh after police destroyed a temporary church structure erected near the ruins of an historic church. Police used teargas and electric batons to beat parishioners, arresting 19, of whom seven were charged with disturbing public order.

In September authorities forcefully expelled more than 300 Buddhist monks and nuns from a meditation center in Lam Dong established in 2005 with government approval. At least two monks were placed under house arrest after authorities forced them to return to their home provinces. Authorities took steps to close the center after its founder, peace activist Thich Nhat Hanh, proposed in 2007 that the government ease religious freedom restrictions.

Freedom of Expression and Information

The government strictly controls the media. Criminal penalties apply to authors, publications, websites, and internet users who disseminate information or writings that oppose the government, threaten national security, reveal state secrets, or promote "reactionary" ideas.

In 2009 the prime minister issued Decision 97, which prohibits publication of research that critiques or opposes the government or party, and limits research by private organizations to 317 government-approved topics. The Institute of Development Studies, one of Vietnam's only independent think-tanks, closed in September, one day before Decision 97 went into effect.

The government controls internet use by monitoring online activity, arresting cyber-dissidents, and blocking websites of certain human rights and political groups. Internet cafe owners are required to obtain photo identification from internet users, and to monitor and store information about their online activities. A 2008 circular regulating blogs calls for bloggers to limit their postings to personal content, and bans posting of articles about politics or issues the government considers state secrets, subversive, or threats to national security and social order.

Journalists covering controversial topics have been fined, fired, and arrested. In January 2009 the editors of two leading Vietnamese newspapers that had exposed a major corruption scandal in 2005 were dismissed from their jobs.

While the government tolerated some public debate about its sensitive relations with China in 2009, it selectively took punitive measures against commentators who characterized Vietnam's China policies as conciliatory, especially regarding China's controversial claims to disputed offshore islands and its investment in Central Highlands bauxite mines. In April authorities suspended publication of Du Lich newspaper for its critical coverage of China's territorial disputes with Vietnam, and in May the paper's deputy editor was dismissed. In August and September police arrested and briefly detained two bloggers and an internet journalist on national security charges for articles criticizing China. Also in September the government fined the editor of the Communist Party's website for publishing "unauthorized" information about China training its military in order to defend its maritime borders with Vietnam.

Criminal Justice System

Police torture is prevalent, particularly during interrogation of political and religious prisoners, who are typically held incommunicado prior to trial and denied family visits and access to lawyers. Vietnamese courts lack independence and impartiality. Political and religious dissidents are often tried without the assistance of legal counsel in proceedings that fail to meet international fair trial standards.

Lawyers representing political or religious activists face intense harassment and even arrest, such as Le Cong Dinh. In February 2009 police raided the office of Le Tran Luat, a lawyer defending Catholics arrested during 2008 prayer vigils in Hanoi. Authorities confiscated his computer and documents, blocked him from meeting his clients, and detained and interrogated him to pressure him to drop the case.

Vietnamese law authorizes arbitrary "administrative detention" without trial. Under Ordinance 44, dissidents and others deemed national security threats can be involuntarily committed to mental institutions or detained in state-run "rehabilitation" centers.

Sex workers, trafficking victims, street children, people who use drugs, and street peddlers are routinely rounded up and detained without warrants in state rehabilitation centers. They are subject to beatings, sexual abuse, insufficient food, and little, if any, access to healthcare, including drug dependency treatment for an estimated 50,000 people who use drugs who are held in such centers.

Prison conditions are harsh and even life threatening. During pretrial detention-which can last more than a year-prisoners are often placed in solitary confinement in dark, cramped, unsanitary cells, with no bedding or mosquito nets. Convicted prisoners must perform hard labor, sometimes under hazardous conditions.

Key International Actors

Vietnam, which served as president of the UN Security Council in October, made few efforts to improve its poor rights record or cooperate with UN human rights mechanisms in 2009, despite significant diplomatic pressure from donors and UN member states.

During the UN Human Rights Council's Universal Periodic Review of Vietnam's rights record in 2009, Vietnam rejected 45 key recommendations from a broad range of member states, such as lifting its restrictions on the internet, authorizing independent media, taking steps to end the practices of torture, arbitrary detention, and capital punishment, and recognizing the rights of individuals to promote human rights, conduct peaceful public protests, and express their opinions.

A September report by the UN Working Group on Arbitrary Detention determined that the government had unlawfully detained 10 dissidents. It criticized penal code provisions for violating human rights treaties and called for the immediate release of journalist Truong Minh Duc, currently serving a five-year sentence for "abusing democratic freedoms."

Donors pledged more than US$5 million in aid to Vietnam during their annual meeting in December 2008. During 2009 they raised a wide range of rights concerns with the government, including arrests of dissidents, censorship of media and blogs, religious freedom, treatment of ethnic minorities, children's rights, administrative detention, and environmental and social impacts of the bauxite mines.

As Vietnam's largest export market, the United States focused on developing its trade, investment, and security relations with Vietnam while exhorting Vietnam to improve its rights record, particularly in regard to media freedom, criminalization of peaceful dissent, and restrictions on blogs and independent research. Issues discussed during a political-military dialogue in 2009 included possible joint operations against drugs and terrorism.

Japan continued its policy of not overtly criticizing Vietnam's rights record, despite its considerable leverage as Vietnam's largest donor and third-largest investor. In March Japan resumed aid and loans to Vietnam after suspending assistance in 2008 over a corruption scandal in one of its projects.