Tuesday, May 25, 2010

Hành Trình Của Một Nữ Tu Sĩ Can Đảm.


By Kumudini Hettiarachchi và Dhananjani Silva, Sunday Times, May 23, 2010
Sau đây là câu chuyện của một thiếu nữ 19 tuổi, cô Karma Lekshe Tsomo, người Mỹ, theo đuổi mơ ước trở thành một nữ tu sĩ.

Tin từ Colombo, Tích Lan:
Karma Lekshe Tsomo hiện đang là phụ tá giáo sư trường đại học San Diego, phân khoa nghiên cứu tôn giáo và phân tích tín ngưỡng, bằng một giọng nhẹ nhàng và từ tốn, kể lại “mối đam mê” làm việc của bà, trong việc thành lập tổ chức cộng đồng tiếng nói của các nữ phật tử thế giới, hầu đem lại lợi lạc và hiểu biết cho phái nữ nói riêng, và nhân loại nói chung.
Nữ tu sĩ Lekshe đã từng là nhà hoạt động dân chủ vận động tích cực cho một thế giới hoà bình bất bạo động, nhưng thật ra mục đích chính của cô là tập trung càng nhiều nữ tu sĩ phật giáo.
Bốn thành phần chính trong xã hội và hệ thống phật giáo là chư tăng, chư ni, ưu bà tắc và ưu bà di.
Trong các nước mà phật giáo nguyên thủy là quốc giáo, thì xã hội phật giáo hoàn toàn không đầy đủ như 1 cái bàn 3 chân, vì đa số không có, hoặc rất ít bóng dáng nữ tu sĩ.
Hồi tưởng lại cuộc hành hành trình gian nan và khó khăn, để cuối cùng trở thành 1 nữ tu sĩ phật giáo Nam Tông vào năm 1987, nữ tu sĩ Lekshe kiêm giáo sư đại học San Diego, kể lại hội nghị quốc tế của các nữ tu sĩ, được tổ chức lần đầu tiên bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma , có khoãng 1,500 tỳ kheo ni, tại Buddhagaya.
Các tỳ kheo ni đến dự không những từ các nước Á Châu vốn chiếm đại đa số, mà còn các tỳ kheo ni đến từ Hoa Kỳ, Đức Quốc và nhiều nước phương Tây khác.
Phái đòan tỳ kheo ni đông nhất là 16 người từ Tích Lan, dẫn đầu bởi bộ trưởng liên hệ Phật Giáo, Hội Nghi quốc tế của các tỳ kheo ni kéo dài 1 tuần, bao gồm thiền định, trao đổi phật pháp, và thảo luận sâu sắc về “Phụ nữ trong Phật Giáo”, bao gồm những chuyên đề về tình trạng sa sút của các tỳ kheo ni Nam Tông.
Hội nghi tỳ kheo ni phật giáo lần thứ nhất, năm 1987, là một phát triển mạnh mẽ của giới nữ trong đạo phật, các tỳ kheo ni cùng ôn lại và hiệu đính các giới luật cần thiết sau hơn 1,000 năm.
Tuy nhiên vấn đề cấp bách và quan trọng cho các tỳ kheo ni là trình độ giáo dục, bởi vì có rất nhiều nữ tu sĩ Phật Giáo suốt đời hy sinh cho đạo phật, mà không hề được xã hội và hệ thống phật giáo nguyên thủy quan tâm, ngay cả nhiều người không hề biết đọc kinh. Chính vì thế, nâng cao trình độ học vấn cho các nữ tu sĩ là điều cần thiết, cho tương lai lãnh đạo, trụ trì, giảng dạy phật pháp trong xã hội.
Các tỳ kheo ni tại đại hội phật giáo lần thứ nhất nhấn mạnh rằng, họ không hề có ý tưởng cạnh tranh với chư tăng, hoặc đòi hỏi có những ân huệ, hay quyền lợi đặc biệt, mà họ chỉ muốn có cơ hội để nâng cao trình độ học vấn và phật pháp, cũng như trong việc thọ giới.
Ngay cả bản thân cô Lekshe, việc thọ giới trở thành tỳ kheo là cả 1 hành trình gian nan, chướng ngại. Một cách trùng hợp, tên của cô Lekshe còn có nghĩa là thiền, và nhiều lần bạn bè cô đã chọc ghẹo cho rằng cô vốn có liên hệ mật thiết với thiền định Phật Giáo. Tuy nhiên, cô càng ngày càng tỏ ra yêu thích tôn giáo này, và càng tìm hiểu sâu vào đạo phật, Cô Lekshe lại càng ước nguyện trở thành một tu sĩ Phật Giáo.
Xuất thân từ một gia đình Tin lành chính thống, cha mẹ cô đã sững sốt khi nghe con gái mình muốn trở thành một nữ tu sĩ phật giáo. Lớn lên tại tiểu bang California Hoa Kỳ, cô đến Nhật Bản 2 năm, và sau đó sang Ấn Độ, cùng vài nước khác, nhưng không nước nào , chùa chiền nào chấp nhận thọ giới cho cô trở thành một nữ tu sĩ Phật Giáo Nguyên Thủy.
Vào năm 1977, lúc đã 32 tuổi cô đã được thọ giới và trở thành tỳ kheo tại Tây Tạng.
Nữ tu sĩ Lekshe tin tưởng rằng chư tăng phật giáo nguyên thủy cho rằng, nếu cho các tỳ kheo ni một trú xứ riêng biệt, thì chư tăng sẽ mất bớt phần cúng dường, tuy nhiên diều này hoàn toàn trái với giáo pháp Đức Phật, vì rằng cả hai tỳ kheo và tỳ kheo ni đều có cùng khả năng giác ngộ như nhau. Dù rằng có nhiều người cho rằng sinh ra mang thân là người phụ nữ, thì nghiệp nặng và xấu hơn, hoặc sẽ luân hồi nhiều hơn.
Hội nghị Tỳ Kheo Ni lần tới sẽ được tổ chức tại Singapore, lần đại hội thứ nhất 1987 đã thành lập được Hội Phật Học Sanghamitta và tổ chức Jamyang, nhằm thay đổi thành kiến tập quán của chư tăng và phật tử về khả năng của tỳ kheo ni , đồng thời phát triễn và xây dựng các công việc phật sự cho giới nữ tu sĩ.
Việc thọ giới cho một nữ nhân, cũng là một vấn đề nan giãi và tranh luận sôi nổi tại các nước thuộc Phật Giáo Cổ truyền. Tuy nhiên ở các nước thuộc hệ thống Phật Giáo Phát Triển thì hệ thống và xã hội tỳ kheo ni phát triễn khá mạnh và vững chắc. Theo tỳ kheo ni Lekshe thì dù Phát triễn hay Nguyên Thủy, thì trong phật pháp không hề có sự giới hạn trong việc thọ giới, vì đó chỉ là 2 danh từ chế định “Mahayana “ và “Theravada”, nhưng đều cùng 1 mục đích là đi theo con đường giải thoát của Đức Phật.
Kể từ Đại Hội Tỳ Kheo Ni lần thứ nhất 1987, Tích Lan đã tạo nhiều cơ hội để các nữ tu sĩ có nhiều cơ hội để học hỏi, giảng dạy, trụ trì, và có nhiều trường của chính phủ chuyên đào tạo và giúp đỡ tỳ kheo ni.
Tỳ kheo ni Lekshe ước lượng rằng có khoãng 60,000 nữ tu sĩ phật giáo trên toàn thế giới đang tham gia và hoạt động tích cực trong trường học, nhà trẻ, trại mồ côi, viện dưỡng lão, cũng như các khu nhà giúp đỡ các phụ nữ không nhà, đây là một dấu hiệu đáng kể trong xã hội Phật Giáo nguyên thủy.
Tỳ kheo ni, đặc biệt tại Châu Á, nơi mà 99% phật tử là nữ giới sinh sống, có thể làm nhiều việc mà các vị tỳ kheo không thể làm được, chẳng hạn cố vấn khuyên bảo về các vấn đề phụ nữ.
Nếu một nữ phật tữ có vấn đề khó nói trong xã hội, hoặc gia đình, cô ta không thể hỏi ý 1 vị tăng, bằng tất cả tấm lòng, nhưng dĩ nhiên cô ta co thể làm điều đó với một tỳ kheo ni.
Dương Tiêu Dịch.
Nguồn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=9,9185,0,0,1,0

No comments:

Post a Comment